Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2014

NGẪM - 17

   ...

         ... Gió heo may đã về
       chiều tím loang vỉa hè
       và gió hôn tóc thề
       rồi mùa thu bay đi
       trong nắng vàng chiều nay
       anh nghe buồn mình trên ấy
       chiều cuối trời nhiều mây
       đơn côi bàn tay quên lối
       đưa em về nắng vương nhè nhẹ ...
    ...

   Cái "... vỉa hè ..." thân thương để "... chiều tím loang ..." lên ấy, cùng với những con đường "... cây dài bóng mát ...", "... có lá me bay ...", "... cánh hoa dầu xoay tít bay bay ...", "... rộn ràng tiếng ve ..." ... trên những "... phố xưa quen biết tên bàn chân ..." ... vẫn luôn cần lắm để mà nhắn nhủ nhau "... em còn nhớ hay em đã quên ..." ; vẫn luôn cần lắm những "... chủ nhật uyên ương, hẹn hò đây đó ..." để mà có thể "... trả lại em yêu ..." những gì "... tưởng rằng đã quên ..." ..., hầu dưỡng nuôi ký ức, di dưỡng tâm hồn, hình thành nên một đời sống văn hóa, tinh thần ...

   Ấy là cái "... vỉa hè ..." trong thơ ca ...

   Ngoài đời, vỉa hè vẫn có một đời sống thực của nó. Vỉa hè đóng vai trò trung gian giữa tĩnh và động, giữa người và xe, giữa nhà và đường. Vỉa hè là nơi dành cho người đi bộ, với những bước chân khoan thai hay gấp gáp, nhẹ nhõm hay trĩu nặng, an nhàn hay vất vả ... Nơi đó là cả một dòng chảy xã hội với bao nhiêu là thân phận con người ... Nơi đó phản ánh khá chân thực đời sống xã hội, thâm trầm sâu lắng hay náo nhiệt nổi sôi, khoáng đạt bao dung hay cạnh tranh giằng xé, thanh thản tự tại hay bon chen chụp giựt ...

   Xã hội ngày một phát triển theo hướng "thị trường hóa", từng tất đất vỉa hè càng trở nên "đắt đỏ". Việc làm ăn mua bán chưa được quy hoạch một cách đồng bộ tổng thể theo từng phân khu chức năng, nên hoàn toàn dựa vào các "mặt tiền" hoành tráng hay manh mún ..., và vỉa hè cũng góp phần vào cuộc chạy đua khốc liệt mà đích đến là "tiền" ...

   Vì tiền, vỉa hè trở thành nơi, để cho các cửa hàng cơi nới, lấn chiếm để quảng cáo, bày thêm hàng hóa thu hút ánh nhìn, chèo kéo bước chân ... ; hay để cho các quầy hàng nhỏ, đôi khi chỉ là mẹt hàng nhỏ, thuê mướn bán đủ các thứ "thượng vàng hạ cám" ... ; hay để cho các "quán cóc" chè chén thuốc lào, cà phê thuốc lá, trà chanh "chém gió" túm tụm dăm ba ...; hay để cho các gánh hàng rong mệt mỏi tạm thời ghé lại thi thoảng rao hời hay xúm xít bán mua ; hay để cho những chiếc xe tạm nghỉ hành trình trong những "bãi giữ xe" tạm bợ giăng dây ... vv ... và ... vv ... Tất cả ...

   Tất cả những cái "để cho" đó đã giành mất chỗ của những bước chân bộ hành, không còn chỗ để đi nhưng vẫn phải có nhu cầu đi. Như một dòng chảy, bị nghẽn lại tất phải tìm lối thoát, khách bộ hành không thể tràn vào nhà thì phải lấn ra đường ... Cái sự lấn ấy gây nhiều phiền toái : tai nạn, kẹt xe, khói bụi, cằn nhằn, chửi rủa, ẩu đả ...

   Ấy vậy mà, gần đây, vỉa hè lại phải dung chứa thêm những "người Việt gốc ... cây", từ các vùng quê xa xôi kéo về dựng lều bạt, căng biểu ngữ khiếu kiện suốt tháng thâu năm ...

   Ai đã từng ngẫm nghĩ về một dòng chảy, tất hẳn phải cảm nhận được sức mạnh tự nhiên cuồng siết dữ dội của nó, "Sự cùng tắc biến, vật cực tắc phản" ... Muốn ngăn một dòng chảy, tất phải khơi một dòng khác, nếu không làm cho nó trở nên có ích như làm hồ chứa, thủy lợi, thủy điện ..., thì sẽ khiến nó trở nên có hại như gây ngập úng, lũ lụt, xói mòn ..., hay tệ hơn nữa là cuồng nộ "tức nước vỡ bờ" ... Chận một dòng chảy, có thể, hay chắc chắn, sẽ gây nên những ảnh hưởng to lớn đến môi trường sinh thái, cả ở thượng lưu, trung lưu và hạ lưu, mà, về lâu về dài, thường là "lợi bất cập hại" ...

   Chợt nghĩ đến, trong việc quản lý xã hội, có một khái niệm gọi là "Hành Lang Pháp Lý", mà nếu đặt chồng lên khái niệm "vỉa hè", ta sẽ thấy chúng có một sự tương quan đồng dạng đến lạ kỳ ...

   Cái "Hành Lang Pháp Lý" ấy, rộng rãi hay chật chội, phẳng phiu hay gập ghềnh, an toàn hay bất trắc, hanh thông hay bế tắc, tự do hay áp bức, dân chủ hay độc tài ... phản ánh chân thực đời sống văn hóa của một xã hội, phản ánh chân thực bản chất của một chế độ, phản ánh chân thực năng lực điều hành của một chính phủ, phản ánh chân thực năng lực quản lý của một nhà nước ... !! ...

NGẪM - 16

   Lão Tử, trong Đạo Đức Kinh, có viết :

   ( Chương 3 )

   Bất thượng hiền, 
   Xử dân bất tranh. 
   Bất quý nan đắc chi hoá, 
   Xử dân bất vi đạo. 
   Bất kiến khả dục , 
   Xử dân tâm bất loạn. 

   Thị dĩ thánh nhân chi trị :
   Hư kì tâm , 
   Thực kì phúc, 
   Nhược kì chí , 
   Cường kì cốt. 
   Thường sử dân vô tri vô dục,
   Xử phù trí giả bất cảm vi giả.
   Vi vô vi, 
   Tắc vô bất trị.

   Nghĩa là :

   Không trọng người hiền, 
   Để cho dân không tranh. 
   Không quý của hiếm, 
   Để cho dân không trộm cướp.
   Không phô bày điều ham muốn, 
   Để cho lòng dân không loạn.

   Cho nên, chính trị của thánh nhân : 
   Lòng thì hư tĩnh, 
   Bụng thì no, 
   Tâm chí thì yếu ( không ham muốn, không tranh giành ), 
   Xương cốt thì mạnh. 
   Khiến cho dân không biết, không muốn, 
   Mà bọn trí xảo không dám hành động.
   Làm theo vô vi,
   Ắt không gì là không trị. 

   ( Chương 7 )

   Thiên trường địa cửu.
   Thiên địa sở dĩ năng trường
   Thả cửu giả
   Dĩ kỳ bất tự sinh,
   Cố năng trường sinh.

   Thị dĩ Thánh nhân
   Hậu kỳ thân nhi thân tiên,
   Ngoại kỳ thân nhi thân tồn.
   Phi dĩ kỳ vô tư dã
   Cố năng thành kỳ tư ?

   Nghĩa là :

   Trời dài đất lâu.
   Trời đất sở dĩ dài lâu
   Là vì không sống cho mình,
   Nên mới được trường sinh.

   Vì vậy Thánh nhân
   Để thân ra sau mà thân được trước,
   Để thân ra ngoài mà thân được còn.
   Phải chăng vì không riêng tư
   Mà thành được việc riêng tư ?

   ( Chương 45 )

   Đại thành nhược khuyết,
   Kỳ dụng bất tệ.
   Đại doanh nhược xung,
   Kỳ dụng bất cùng.
   Đại trực nhược khuất,
   Đại xảo nhược chuyết,
   Đại biện nhược nộn.

   Tĩnh thắng táo, 
   Hàn thắng nhiệt.
   Thanh tĩnh dĩ vi thiên hạ chính. 

   Nghĩa là :

   Thành tựu mỹ mãn dường như dở dang,
   Thì chỗ dùng của nó không hư được.
   Đầy tràn dường như trống không,
   Thì chỗ dùng của nó vô cùng.
   Rất ngay thẳng dường như cong queo,
   Rất khéo léo dường như vụng về,
   Rất hùng biện dường như ấp úng.

   Tĩnh thắng động,
   Hàn thắng nhiệt.
   Thanh tĩnh để làm chính thiên hạ.

   ( Chương 81, cuối cùng )

   Tín ngôn bất mỹ,
   Mỹ ngôn bất tín.
   Thiện giả bất biện,
   Biện giả bất thiện.
   Tri giả bất bác,
   Bác giả bất tri.

   Thánh nhân bất tích,
   Ký dĩ vi nhơn kỷ dũ hữu,
   Ký dĩ dữ nhơn kỷ dũ đa.
   Thiên chi Đạo, lợi nhi bất hại.
   Thánh nhân chi đạo, vi nhi bất tranh.

   Nghĩa là :

   Lời thành thực không đẹp,
   Lời đẹp không thành thực.
   Người hiền không tranh biện,
   Người tranh biện không hiền.
   Người trí không học rộng,
   Người học rộng không trí.

   Thánh nhân không thu giữ,
   Càng vì người, mình càng thêm có,
   Càng cho người, mình càng thêm nhiều.
   Đạo của Trời, lợi mà không hại.
   Đạo của Thánh nhân, làm mà không tranh.

   Đạo Đức Kinh chủ trương "Vô Vi" và đề cao tính "Thuần Phác", để đối trọng lại với tình trạng "Hữu Vi" và lạm dụng "Trí Thuật" trong xã hội Trung Quốc thời Tiên Tần, nên cũng lại bị xem là "cực Hữu Vi". Những lời trong Đạo Đức Kinh vốn để tồn tâm dưỡng tánh, tu thân, nên Lão Giáo đã trở thành một tôn giáo hơn là một thuật trị quốc, nhưng những kẻ làm chính trị cũng có thể biến các lời trên thành các chiêu trò để "mị dân" ... 

   William Shakespeare từng nói "Tên quỷ sứ cũng có thể trích dẫn kinh thánh để khai thác"  ... "Cái gì của Ceasar thì trả lại cho Ceasar" ; "Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho ; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi" ; "Phúc cho những ai không thấy mà tin" ... là những câu vẫn thường hay bị viện dẫn với những mục đích thiếu trong sáng ( để xuyên tạc "tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng" ... chẳng hạn ) ...

   Hàn Phi Tử thích cái học "Hình Danh"  ( Hình là sự việc, Danh là lời nói. Hình danh phải hợp nhau, sự việc phải phù hợp với lời nói ), gốc của học thuyết này là ở Hoàng Đế, Lão Tử. Nhưng Hàn Phi lại chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Chủ trương "vô vi nhi trị" đó thực trái hẳn chủ trương của Lão Tử, Trang Tử, chính ra nó lại là một thứ cực "hữu vi" ...

   Hàn Phi là học trò của Tuân Tử. Tư tưởng Tuân Tử có nhiều điểm tương đồng với Khổng - Mạnh, chủ trương "Quý Dân" và "Thượng Hiền" ...

-   Thương dân nước sẽ mạnh, như câu "ái dân giả cường, bất ái dân giả nhược". ( Kẻ thương dân thì mạnh, kẻ không thương dân thì yếu ).

-   Thương dân thì chúa sẽ an vị, như câu "Quân giả châu giã, thứ nhân giả thủy giã ; thủy tắc tải châu, thủy tắc phúc châu, thử chi vị giã. Cố quân nhân giả, dục an, tắc mạc nhược bình chính ái dân dĩ". ( Vua ví như thuyền, dân ví như nước ; nước chở được thuyền thì cũng lật được thuyền. Cho nên kẻ nắm quyền cai trị nếu muốn được an vị, thì chẳng còn cách nào hay bằng, thực hiện chính trị hòa bình và biết thương dân).

-   Lập luận dân quý vua khinh, như câu "Thiên chi sinh dân, phi vi quân giã ; thiên chi lập quân, dĩ vi dân giã". ( Trời sinh ra dân, chẳng phải vì vua ; trời lập ra vua, ấy là vì dân). Điểm này hoàn toàn phù hợp với lời "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" của Mạnh Tử.  

   -   Chọn hiền sĩ có thể giúp cho vua an vị, như câu "Tuyển hiền trưởng ... như thị tắc thứ nhân an chính ; thứ nhân an chính, nhiên hậu quân tử an vị". ( Tuyển dụng kẻ hiền tài giúp việc nước... như thế là dân sống yên nhờ chính trị tốt ; dân có yên chính, thì chúa mới yên vị được).   

-   Đức phải xứng với vị, như câu "Vô đức bất quý, vô năng bất quan, vô công bất thưởng, vô tội bất phạt" ( Kẻ thiếu đức không được ở địa vị cao sang, người kém tài thì không được làm quan, chẳng có công thì đừng thưởng, chẳng có tội thì đừng phạt ).   

-   Phê phán kẻ bất kính hiền, khác nào loài cầm thú, như câu "Nhân hiền nhi bất kính, tắc thị cầm thú giã". ( Không biết kính trọng kẻ hiền sĩ, tức là loài cầm thú vậy ).

   Nhưng Tư tưởng của Hàn Phi Tử đối nghịch lại với tư tưởng của Nho Giáo ( vốn cho rằng để quản lý xã hội thì dùng Nhân Trị và Đức Trị ), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật : "Cái làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có thể làm điều riêng tư được nữa" ; "Pháp luật không hùa theo người sang ... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu".

   Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy Tuân Tử một cách triệt để, bảo không gì thân bằng tình cha con, vậy mà có nhiều người cha sinh con trai thì nuôi, sinh con gái thì giết đi, coi cái lợi của mình nặng hơn tình ruột thịt như vậy là con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến Nhân Nghĩa, cũng không trọng Lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng "Thế", "Thuật", "Pháp" của Pháp Gia để trị nước.


   Hàn Phi chịu ảnh hưởng của Mặc Tử. Mặc Tử chủ trương "Kiêm Ái", "Phi Công", "Thượng Đồng"...

 -   Tình thương bình đẳng và phổ cập. "Thiên hạ chi vi phụ mẫu giả chúng, nhi nhân giả quả". ( Dưới bầu trời, kẻ làm cha mẹ thì đông, nhưng người nhân đức thì hiếm ), và kẻ làm vua cũng rất ít có người nhân đức. Cho nên Mặc Tử chủ trương sống theo đức Trời, bởi chỉ có Trời mới "Kiêm nhi ái chi, kiêm nhi lợi chi" ( Trời thương tất cả làm lợi cho tất cả mọi người ).

 -   Can ngăn và chống lại những vụ thoán nghịch trong nội bộ các nước, dùng võ lực công phạt lẫn nhau giữa các nước. 

 -   Dân phải tán đồng lẽ phải với người trên, phải cùng một quan niệm tốt xấu với người trên, không ai được có chủ trương riêng khác với chính sách của triều đình.

   Hàn Phi ghét những người trị nước không trau dồi làm cho pháp chế sáng rõ, mà muốn dùng cái thế của mình để chế ngự bầy tôi, không lo việc làm cho nước giàu, binh mạnh bằng cách tìm người xứng đáng, dùng người hiền ; trái lại dùng những bọn tham nhũng, dâm loạn, sâu mọt, đặt chúng ở địa vị cao hơn những người có công lao và có thực tài. Hàn Phi cho rằng bọn nhà Nho dùng lời văn làm rối loạn luật pháp, bọn du hiệp dùng võ lực phạm đến điều ngăn cấm, gặp lúc yên ổn thì nhà vua dùng bọn ham danh, gặp lúc nguy cấp thì lại dùng kẻ sĩ mang giáp trụ. Như thế thành ra ngày nay người nhà vua nuôi lại không phải là những người nhà vua cần dùng, những người nhà vua cần dùng đều lại không phải những người nhà vua nuôi.

   Pháp Trị là học thuyết duy nhất có sự kế thừa, hàm chứa những những yếu tố của những học thuyết khác nhiều nhất, nhờ đó tạo ra một phương thức giải quyết vững chắc, toàn vẹn và thực tế nhất trong vấn đề trị quốc : Lễ nghĩa, danh phận của Nho Gia được cụ thể hoá trong pháp luật ; Vô Vi của Lão Gia được chuyển hoá thành quan hệ biện chứng Vô Vi - Hữu Vi ; Kiêm Ái của Mặc Gia tuy là nội dung yếm thế nhất của học thuyết Pháp Trị, nhưng Hàn Phi vẫn coi đây là mục đích cuối cùng của pháp luật.   

   Nhờ học thuyết Pháp Trị, Tần Thuỷ Hoàng đã chấm dứt cục diện bách gia phân tranh thời tiên Tần, thống nhất Trung Quốc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên tại Trung Quốc.   

   Mặc dù vậy, cần phải thấy rằng, pháp luật mà Hàn Phi đề cao là thứ pháp luật hà khắc, tàn bạo, khác xa với pháp luật ngày nay ; con người phải vì pháp luật, chứ pháp luật không vì con người ; mặt khác, pháp luật dù ở vị trí thượng tôn, trên muôn dân, nhưng lại dưới một người ( nhà vua ). Đó là hạn chế của học thuyết Pháp Trị.

   Bình luận của Tư Mã Thiên trong Sử ký :

   Lão Tử chủ trương "đạo" thì "hư" không có nguồn gốc, biến hóa từ chỗ "vô vi", cho nên làm sách lời vi diệu, khó hiểu. Trang Tử nói rộng về "đạo" và "đức", nhưng điều chủ yếu trong học thuyết cũng quay về tự nhiên. Tuân Tử chăm chú trình bày về cái "danh" và cái "thực". Hàn Tử đưa ra tiêu chuẩn để xét sự việc, phân biệt điều phải điều trái. Học thuyết ông ta hết sức thảm khốc, ít dùng ân đức. Tất cả điều đó đều do học thuyết về "đạo" và "đức" mà ra. Chỉ có Lão Tử thực là sâu sắc và xa rộng vậy !

   Nhận xét của Nguyễn Hiến Lê :

   Cái học của Hàn Phi vẫn được thi hành ở Tần và giúp Tần Thủy Hoàng hoàn thành được công việc thống nhất Trung Quốc, lập chế độ quân chủ chuyên chế thay chế độ phong kiến. Trong thời kỳ của Hàn Phi, các học thuyết của Khổng, Mặc đã thất bại trong việc cứu vãn thời thế ; Hàn Phi đã thành công nhờ dùng trọn các thuyết của Pháp Gia. Phái Nhân Trị quá lý tưởng trong thời loạn, phải hạ lần lần lý tưởng của mình xuống : mới đầu Khổng Tử đề cao đức Nhân, sau Mạnh Tử hạ xuống mà trọng Nghĩa, Tuân Tử hạ xuống nữa, trọng Lễ mà chính môn sinh của ông cũng không theo, họ trọng Pháp, thấp nhất, và dẹp được loạn. Nhưng chính họ, từ Thương Ưởng đến Hàn Phi, Lý Tư, Triệu Cao, đều bất đắc kì tử và nhà Tần bị diệt. Hàn Phi được kể trong giai cấp cầm quyền thì tìm cách tăng cường thêm uy quyền của thiên tử, dùng mọi thủ đoạn quỷ quyệt, được so sánh với Machiavelli của Ý.


   Ở phương Tây, Plato cũng tìm kiếm một mô hình "Thành Quốc Lý Tưởng" thông qua sự phân tích những ưu và khuyết điểm của các cơ chế Quý Tộc, Vị Danh ( Tài Bản ), Quả Đầu, Dân Chủ, Chuyên Chế ( Độc Tài ) ..., và dường như, ông cũng nghiêng về Pháp Trị ... Hãy nghe ông nói về cơ chế Dân Chủ :

-   "Có phải thành quốc thay đổi từ chính thể quả đầu sang chính thể dân chủ là do quần chúng thèm khát cái quần chúng cho là tốt đẹp, do thả lỏng quần chúng theo đuổi mục đích làm giàu càng nhiều càng tốt không ?"

-   "... chính thể dân chủ ra đời là khi người nghèo khó thắng thế, tàn sát một số giàu có, tống cổ một số đối lập lưu vong, cho quần chúng quyền bình đẳng, cơ hội tham gia chính quyền, bổ nhiệm chức vụ xã hội phần lớn theo nguyên tắc bốc thăm."    

-   "Có lẽ đây là một cơ chế hấp dẫn khủng khiếp. Như tấm áo thêu thùa đủ loại hoa hình, trình bày đủ loại màu sắc, tô điểm đủ loại nét vẻ con người, cơ chế trở nên lôi cuốn lạ kỳ. Vì thế, như đàn bà và trẻ con nom thấy đồ vật màu sắc sặc sỡ, đa số dân chúng nhận xét đó là hình thức xã hội tốt đẹp hơn hết."

-   "Dáng dấp đĩnh đạt, oai vệ, cơ chế dân chủ quét sạch, chà đạp tất cả, không mảy may nghi ngờ quá khứ, lai lịch chính khách trước khi bước vào chính trường, song sẽ đề cao, miễn người đó tuyên bố là bạn của nhân dân, quyết tâm phục vụ mọi điều nhân dân ao ước !"

-   "Có vẻ là cơ chế thú vị, bát nháo, tạp nham, đa màu, đa sắc, không người cầm đầu, phân chia đồng đều, coi mọi người bằng nhau, bất kể họ có bằng nhau hay không."

-   "Vậy có phải thể chế chuyên chính phát xuất từ thể chế dân chủ theo cách tương tự như thể chế dân chủ ra đời từ thể chế quả đầu không ?"

-   "... phải chăng thèm muốn tự do quá đáng, không quan tâm tới vấn đề khác, là động lực hủy hoại thể chế dân chủ dẫn đến chế độ chuyên chính ?"

-   "... hình thức nô lệ man rợ, tàn nhẫn hơn hết bắt nguồn từ tự do quá độ."

... vv ...

   Do đó, nền Dân Chủ của Hoa Kỳ đã được xây dựng dựa trên nguyên tắc "Tam Quyền Phân Lập" và đệ tứ quyền "Tự Do Ngôn Luận" kiểm soát lẫn nhau để kiềm chế tình trạng "tự do quá độ", Tự Do phải được hiểu là tự do trong khuôn khổ luật pháp chứ không phải là tự do vô chính phủ. Và phương thức bầu cử Tổng Thống ở Hoa Kỳ thực chất là người dân bầu cử tổng thống một cách gián tiếp thông qua các Đại Cử Tri, thành phần tinh hoa của xã hội do người dân chọn lọc trực tiếp, lá phiếu của các Đại Cử Tri mới mang giá trị quyết định ai là Tổng Thống !

   Hiện nay, cơ chế Dân Trị trên cơ sở Tam Quyền Phân Lập và Đệ Tứ Quyền Tự Do Ngôn Luận của Mỹ có vẻ là một cơ chế hài hòa nhất giữa Nhân Trị và Pháp Trị ... Đương nhiên, một cách khách quan, mọi cơ chế đều bất toàn, "Dân Chủ là hình thức nhà nước tồi nhất … nếu không kể mọi hình thức khác đã được thử qua !" ( Winston Churchill ), và xã hội loài người vẫn đang tiến về phía trước để hoàn thiện ...

...

   Dẫn giải dông dài như trên, là để thấy rằng : Khi sáng tạo, tiếp thu, chịu ảnh hưởng, hay phủ định, hoài nghi, phản biện,  ... một triết thuyết nào, ngoài tri thức còn phải có một cái TÂM ... ; và trong việc trị quốc, dù Nhân Trị hay Pháp Trị, ngoài những "Thế", "Thuật", "Pháp", vẫn cần có một cái TÂM ...

   Các tôn giáo, rốt ráo đều quy về TÂM : "Chúa ở trong TÂM mỗi chúng ta", "Phật tại TÂM" ... 

   Mở đầu Đạo Đức Kinh là câu "Đạo khả đạo phi thường Đạo, Danh khả danh phi thường Danh" - Đạo mà có thể bàn luận được thì không phải là Đạo thường hằng, Danh mà có thể gọi được thì không phải Danh bất biến. Đạo là bất khả tư nghì, không thể hiểu biết được bằng lý trí, chỉ có thể cảm nhận được bằng tình cảm, TÂM ...

   Mở đầu Thạch Sa Tập là câu chuyện khai TÂM : "Một Tách Trà".

   Nanin, một thiền sư Nhật sống vào thời Minh Trị ( 1868 - 1912 ), tiếp một giáo sư đại học đến hỏi về Thiền. Nanin mời trà. Ông đã rót đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm.

   Vị giáo sư ngồi nhìn trong tách tràn ra cho đến khi không kiềm mình được nữa : Đầy quá rồi. Xin đừng rót nữa.

   Ông giống như cái tách này. Nanin nói : Ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông. Làm sao tôi có thể bày tỏ thiền cho ông được, trừ phi ông cạn cái tách của ông trước ?


   CHỈ CÓ TỪ "TÂM", MỚI CÓ THỂ ĐẠT ĐẾN ĐƯỢC GIÁC NGỘ ...

   CHỈ CÓ TỪ "TÂM", MỚI CÓ THỂ THỤ ĐẮC ĐƯỢC KIẾN THỨC ...

   CHỈ CÓ TỪ "TÂM", MỚI CÓ THỂ HOÀN THIỆN ĐƯỢC VIỆC TRỊ QUỐC ... ! ...

NGẪM - 15

   Không phải không có lý do mà sau Tam Quyền : Lập Pháp - Tư Pháp - Hành Pháp, thì quyền Tự Do Ngôn Luận được xem là Đệ Tứ Quyền, Quyền Lực Thứ Tư.

   Không phải không có lý do mà khi tấn công chiếm một thành phố, thì một trong những mục tiêu cần chiếm đầu tiên là Đài Phát Thanh - Truyền Hình.

   Không phải không có lý do mà mọi thể chế độc tài, phát xít, cộng sản, quân phiệt ... đều thi hành chính sách độc tài về ngôn luận.

   Người dân, dù ở các nước phát triển rất cao về dân trí, vẫn bị chi phối, định hướng bởi dư luận, vẫn theo phe đa số do cái tâm lý bản năng "bầy đàn" ...

   Do đó, Tự Do Ngôn Luận luôn là một con dao hai lưỡi sắc bén vô cùng nguy hiểm nếu không biết sử dụng với một lương tâm trong sáng, công bằng, chính trực và một sự chế tài đủ mức cần thiết, nếu hơn hay kém thì sẽ gây hiệu ứng ngược ...

   Tam Quyền cần Đệ Tứ Quyền để giám sát, điều chỉnh ; Đệ Tứ Quyền cần Tam Quyền để tồn tại, phát triển ...

   Cho nên, Tam Quyền và Đệ Tứ Quyền là những điều kiện cần và đủ cho nhau, liên quan mật thiết và hỗ tương bổ khuyết cho nhau, tạo nên những xung lực tích cực giúp xã hội phát triển hài hòa !

   "Cách mạng" xã hội, nếu hiểu đúng theo nghĩa tích cực, là thay đổi một cơ chế xã hội cũ lạc hậu bằng một cơ chế xã hội mới tiến bộ hơn, thì trong lịch sử, giai cấp vô sản chưa bao giờ làm "cách mạng" cả ... Cụm từ "chỉ có giai cấp vô sản mới làm nên các cuộc cách mạng triệt để" là của bọn "đầu cơ cách mạng" tung ra để mị dân, kêu gọi tầng lớp công nông ít học, nhẹ dạ cả tin, là giai cấp bị trị có quyền lợi thường mâu thuẫn với quyền lợi của giai cấp cai trị, vốn chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội, đổ máu ra để phục vụ cho mưu đồ của chúng ... "Một lời dối trá nói mãi cũng sẽ thành sự thật" ( lê nin ) ...

   Trong lịch sử nhân loại, sự chuyển đổi các cơ chế xã hội từ Công Xã Nguyên Thủy sang Chiếm Hữu Nô Lệ, Phong Kiến, Tư Bản ... đều do các thành phần ưu tú của xã hội thời đó lãnh đạo, giai cấp vô sản chỉ là công cụ, luôn luôn là như vậy ...

   Cụm từ "cách mạng triệt để" nhằm nói đến một trạng thái "phủ định sạch trơn", và do đó sẽ bị lạc lối, không còn một nền móng căn bản nào để xây dựng cái mới, dẫn đến thất bại. Trong khi, một cách khách quan, các cơ chế xã hội đều tiếp nối nhau theo quy luật có phủ định và có kế thừa ...

   Những cụm từ dối trá ấy sẽ mãi lừa dối quần chúng nếu không được / bị phản biện. Mà phản biện chân chính chỉ có thể có được khi quyền Tự Do Ngôn Luận được đảm bảo.

   Trong tất cả mọi cơ chế xã hội, việc định hướng con người, dư luận, thông tin ... luôn là điều cần thiết. Vấn đề là xét đến cách thức, mức độ, phạm vi, nguyên nhân, mục đích ... của việc định hướng đó.

   Do hiểu được những mặt hạn chế của "chính thể dân chủ" trong tác phẩm Cộng Hòa của Plato :

-   "Có phải thành quốc thay đổi từ chính thể quả đầu sang chính thể dân chủ là do quần chúng thèm khát cái quần chúng cho là tốt đẹp, do thả lỏng quần chúng theo đuổi mục đích làm giàu càng nhiều càng tốt không ?"

-   "... chính thể dân chủ ra đời là khi người nghèo khó thắng thế, tàn sát một số giàu có, tống cổ một số đối lập lưu vong, cho quần chúng quyền bình đẳng, cơ hội tham gia chính quyền, bổ nhiệm chức vụ xã hội phần lớn theo nguyên tắc bốc thăm." 

-   "Có lẽ đây là một cơ chế hấp dẫn khủng khiếp. Như tấm áo thêu thùa đủ loại hoa hình, trình bày đủ loại màu sắc, tô điểm đủ loại nét vẻ con người, cơ chế trở nên lôi cuốn lạ kỳ. Vì thế, như đàn bà và trẻ con nom thấy đồ vật màu sắc sặc sỡ, đa số dân chúng nhận xét đó là hình thức xã hội tốt đẹp hơn hết."

-   "Dáng dấp đĩnh đạt, oai vệ, cơ chế dân chủ quét sạch, chà đạp tất cả, không mảy may nghi ngờ quá khứ, lai lịch chính khách trước khi bước vào chính trường, song sẽ đề cao, miễn người đó tuyên bố là bạn của nhân dân, quyết tâm phục vụ mọi điều nhân dân ao ước !"

-   "Có vẻ là cơ chế thú vị, bát nháo, tạp nham, đa màu, đa sắc, không người cầm đầu, phân chia đồng đều, coi mọi người bằng nhau, bất kể họ có bằng nhau hay không."

-   "Vậy có phải thể chế chuyên chính phát xuất từ thể chế dân chủ theo cách tương tự như thể chế dân chủ ra đời từ thể chế quả đầu không ?"

-   "... phải chăng thèm muốn tự do quá đáng, không quan tâm tới vấn đề khác, là động lực hủy hoại thể chế dân chủ dẫn đến chế độ chuyên chính ?"

-   "... hình thức nô lệ man rợ, tàn nhẫn hơn hết bắt nguồn từ tự do quá độ."... vv ...

   Nên nền Dân Chủ của Hoa Kỳ đã được xây dựng dựa trên nguyên tắc "Tam Quyền Phân Lập" và đệ tứ quyền "Tự Do Ngôn Luận" kiểm soát lẫn nhau để kiềm chế tình trạng "tự do quá độ", và Tự Do phải được hiểu là "tự do trong khuôn khổ luật pháp" chứ không phải là "tự do vô chính phủ". Và phương thức bầu cử Tổng Thống ở Hoa Kỳ thực chất là người dân bầu cử tổng thống một cách gián tiếp thông qua các Đại Cử Tri, thành phần ưu tú, tinh hoa của xã hội do người dân chọn lọc trực tiếp, lá phiếu của các Đại Cử Tri mới mang giá trị quyết định ai là Tổng Thống ! Tổng Thống Mỹ nắm quyền Hành Pháp, nhưng mọi chính sách của Tổng Thống phải được sự chấp thuận của Lưỡng Viện Quốc Hội, nắm quyền Lập Pháp, và nằm dưới sự chế tài của Tòa Án Hiến Pháp, nắm quyền Tư Pháp ...
   
   Còn nhớ, thời Miền Nam trước 1975, có một đề bài Tập Làm Văn như vầy ( những ai được sinh ra trước hay sau năm 1960, đi học ở Miền Nam, hẳn có biết ), nguyên văn :

   "Cao Bá Quát có phải là nhà cách mạng không ? Hãy chứng minh".

   Một đề văn "mở" như vậy sẽ kích thích và khai mở tư duy đến cỡ nào … !? Học sinh, sinh viên hoàn toàn được quyền tự do nhận định "Có - Không", "Đúng - Sai", và sẽ được / phải vận dụng hết tất cả tư duy và kiến thức của mình về Văn, Sử, Địa, Triết, Chính Trị … để chứng minh, làm sáng tỏ nhận định của mình, của "chính mình", "riêng mình", một cách độc lập mà không hề bị áp đặt bởi một "ý thức hệ", "lập trường quan điểm", "kim chỉ nam", "hòn đá tảng" ... nào ... ! …

   Tiếc thay, một đề Văn như vậy, lại là sản phẩm của một nền Văn Hóa "đồi trụy", nằm trong một chế độ Cộng Hòa "phản động", nên đã bị "cách mạng" ... ( UẤT ! ) ... để thay bằng một nền giáo dục "tiến bộ", trong đó có một đề Toán ( nhấn mạnh : "đề Toán" ), nguyên văn :

   "Bạn Võ Tiến Trung ở Quảng nam mới 8 tuổi đã cùng cô chú đánh Mỹ, cứu nước. Một lần bạn Trung đã dùng lựu đạn diệt 7 tên Mỹ. Một lần khác, bạn ấy lại diệt 7 tên thám báo ác ôn và 3 tên Mỹ. Hỏi cả hai lần đó, bạn Trung đã diệt tất cả bao nhiêu giặc Mỹ và ác ôn ?" 

   Còn về Văn, ta thấy đầy rẫy những :

   "Qua cuộc đời, sự nghiệp / thơ / văn ... của ABC ... hãy chứng minh ABC là một nhà cách mạng ( lớn ) / một nhà thơ cách mạng ( lớn ) / một nhà văn cách mạng ( lớn ) ..., suốt đời tận tụy hy sinh, cống hiến, phục vụ ..." ... vv và vv ... 

   Sự giáo dục man rợ và định hướng ngu dân là quá rõ ràng và áp đặt : học sinh, sinh viên không thể nói điều ngược lại ... Mà, biết đâu, hay chắc chắn, điều ngược lại mới chính là điều họ muốn nói, muốn chứng minh ... !? ...

   Tại sao không là :

   Hồ Chí Minh có phải là nhà cách mạng không ? Hãy chứng minh.

   Hay : 

   Hãy so sánh và đánh giá thơ / văn / nhạc / họa của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hữu Loan ... / Phan Khôi, Nguyễn Tuân ... / Văn Cao, Tô Vũ ... / Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân ... trước và sau năm 1945.

   Mong rằng trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, dù là dưới bất kỳ một chính thể nào, rồi sẽ có lúc có những đề Văn như vậy !

   Có câu : "Trí Thức là người có tinh thần phê phán" ( - Về Trí Thức Nga - ).

   Chỉ có một nền giáo dục mang triết lý Khai Phóng mới có thể đào tạo ra những con người Trí Thức chân chính có đầy đủ bản lĩnh để tư duy độc lập, không chỉ biết cách "giải quyết vấn đề", mà còn biết cách "đặt vấn đề", có tinh thần phê phán lành mạnh, phản biện khách quan, làm tiền đề để xây dựng nên một cơ chế xã hội Dân Chủ tiến bộ với Tam Quyền Phân Lập và Đệ Tứ Quyền Tự Do Ngôn Luận !

NGẪM - 14

   Thế Quyền ( Nhà Nước ) và Thần Quyền ( Tôn Giáo ) đều phát sinh và hiện hữu do nhu cầu của con người, nhằm giải quyết các vấn đề về vật chất ( thể xác ) và tinh thần ( tâm linh ). 

   Thế Quyền đã liên tục thay đổi theo quy luật khách quan qua các chế độ Công Xã Nguyên Thủy, Chiếm Hữu Nô Lệ, Phong Kiến, Tư Bản ...

   Thiên Chúa Giáo dạy "Chúa ở trong mỗi chúng ta", Phật Giáo dạy "Phật tại tâm" ... Phật Giáo diễn tả trạng thái giác ngộ : "gặp Phật giết Phật, gặp Tăng giết Tăng" nhằm diệt ngã, xóa chấp. Như vậy, khi con người đạt đến sự giác ngộ, không còn "chấp mê bất ngộ" vào "sắc" : kinh kệ, giáo luật giáo lý ... ; hòa nhập tiểu ngã ( cá nhân, tiểu vũ trụ ... ) vào đại ngã ( nhân quần, vũ trụ ... ) thì tôn giáo tự tan biến vào "không" ... Cũng vậy, khi con người đã đạt đến ý thức tự giác cao, không còn cần đến sự điều chỉnh, chế tài của pháp luật, thì chính quyền cũng trở nên không còn cần thiết, nhà nước tự tan biến ... Đó là một trạng thái lý tưởng mà xã hội loài người sẽ dần dần "tiệm cận", càng ngày càng gần nhưng không bao giờ chạm tới được ... 

   Người tự giác, chấp hành pháp luật do ý thức được lẽ công chính xã hội ; người không tự giác, chấp hành pháp luật do sợ bị chế tài ... Người tự giác, làm lành lánh dữ do ý thức được đạo lý ; người không tự giác, làm lành lánh dữ do sợ bị trừng phạt ...

   Do đó, Thế Quyền và Thần Quyền sẽ tồn tại mãi, và dần thay đổi để thích ứng theo từng giai đoạn phát triển của xã hội loài người ...

   Con người đặt ra Chúa, Phật, Thánh ... như những đấng Toàn Năng, Toàn Giác, Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ ... là để làm mục tiêu "hướng đến", chứ không phải "đạt đến".

   Chủ nghĩa cộng sản đã sai lầm từ trong lý luận, phủ nhận các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội khi mong muốn đạt đến một xã hội "đại đồng", thiết lập chế độ "công hữu" trong một xã hội hoàn toàn không có giai cấp, nên sẽ không có chính quyền ( không có giai cấp cai trị và bị trị ) ; con người hoàn toàn tự giác, "giác ngộ", nên không cần tôn giáo. Hơn nữa, những người kế tục và áp dụng lại dùng bạo lực và cưỡng bức như là một phương tiện duy nhất để đạt được những điều đó, khiến cho mâu thuẫn giai cấp, vốn tồn tại khách quan và là động lực phát triển xã hội, càng trầm trọng thêm ; tinh thần con người không được neo giữ, hướng thượng bởi giáo luật, đức tin nên xã hội ngày một tha hóa bởi lòng tham và thù hận ...

   Lão Tử, từ hơn hai ngàn năm trước, cũng đã nói đến "đại đồng", con người sống chan hòa, thuần phác, thuận theo tự nhiên, "tuyệt thánh khí trí", "ích học tổn đạo", cực "vô vi" ..., nhằm đối trọng với cuộc sống đầy hỗn độn, tranh giành, chém giết, cực "hữu vi" của thời Liệt Quốc - Tiên Tần ... Đạo Đức Kinh của Lão Tử là một triết phẩm dùng để tồn tâm dưỡng tánh, giữ được cân bằng trong tinh thần, suy nghiệm sâu xa về lẽ sống ..., hơn là một mô hình xã hội mang tính khả thi ... Nên Lão Giáo đã dần trở thành một tôn giáo. Trong khi Khổng Giáo, thiết lập một hệ thống tôn ti trật tự trong xã hội, đề cao giai cấp qua thuyết "Chính Danh", "Quân Đức", "Tam Cương" ... đã biến thành thuật trị quốc ...

   Plato, cũng từ hơn hai ngàn năm trước, cũng thất bại khi đề cao giai cấp nhưng lại muốn thiết lập chế độ công hữu để xây dựng "thành quốc lý tưởng". Triết phẩm Cộng Hòa của ông được tham khảo để tìm ra những ưu việt và khiếm khuyết của các cơ chế Quý Tộc, Vị Danh ( Tài Bản ), Quả Đầu, Dân Chủ, Chuyên Chế ( Độc Tài ), nhằm xây dựng một cơ cế xã hội hoàn thiện nhất có thể ...

   Để kiềm chế và khắc phục tình trạng "tự do quá độ" của cơ chế Dân Chủ được nêu trong triết phẩm Cộng Hòa bởi Plato, nền Dân Chủ của Hoa Kỳ đã được xây dựng dựa trên nguyên tắc "Tam Quyền Phân Lập" và đệ tứ quyền "Tự Do Ngôn Luận" kiểm soát lẫn nhau, "Tự Do" phải được hiểu là "Tự Do trong khuôn khổ luật pháp" chứ không phải là "Tự Do vô chính phủ". Và phương thức bầu cử Tổng Thống ở Hoa Kỳ thực chất là người dân bầu cử tổng thống một cách gián tiếp thông qua các Đại Cử Tri, thành phần ưu tú, tinh hoa của xã hội do người dân chọn lọc trực tiếp, lá phiếu của các Đại Cử Tri mới mang giá trị quyết định ai là Tổng Thống !

   Người Do Thái khi tái lập quốc sau 1945, đã áp dụng một hình thái "cộng sản thuần khiết" : cùng ăn, cùng ở, cùng làm ... trong các "Kibbutz", theo tiếng Do Thái có nghĩa là "Tổ Hợp" – một hình thức tổ chức kinh tế nông - công nghiệp nông thôn, đáp ứng tốt nhất cho thời kỳ đầu gian nan lập quốc, được cả Liên Xô và Mỹ ủng hộ. Nhưng khi đã ổn định, có của ăn của để, thì óc tư hữu phát sinh, họ đã kịp thời điều chỉnh cơ chế chính trị cho thích ứng với sự phát triển của xã hội. Khi đi ngang nhà trẻ công cộng, nơi trẻ con được nuôi dạy chung để cha mẹ rảnh tay lo việc xã hội, một cách thức đã được Plato đề cập đến trong triết phẩm Cộng Hòa để tạo ra giai cấp "Vệ Quốc" và "Trợ Thủ" nhằm xây dựng một "thành quốc lý tưởng", họ thấy trẻ con khi đã có đồ chơi trong tay, vẫn tranh giành đồ chơi với các trẻ khác, họ hiểu rằng óc tư hữu là một thứ bản năng của loài người, không thể triệt tiêu một cách khiên cưỡng, chủ quan, duy ý chí ... Ngoài ra, ý chí phục quốc của người Do Thái còn được hỗ trợ bởi tín ngưỡng tôn giáo : Do Thái Giáo, đức tin về một "Miền Đất Hứa" Jerusalem mà Thiên Chúa đã ban cho họ ...

   Tại các quốc gia phương Tây, khi một người tuyên thệ cho một nhiệm vụ quan trọng nào đó như Tổng Thống, nhân chứng ... đều phải đặt tay lên Kinh Thánh và cam đoan về những việc làm và lời nói của mình. Theo John Stuart Mill : "Với một người có niềm tin Tôn Giáo thì dù làm sai hay đúng, sẽ có một ngày Thượng Đế sẽ chất vấn lương tâm". Quốc Ca nước Mỹ có câu "In God is our trust", đồng tiền của nước Mỹ có in câu "IN GOD WE TRUST" ...

   Ở các nước phát triển cao cả về xã hội lẫn dân trí, có khái niệm "chính quyền yếu", giới hạn quyền lực của chính quyền trong phạm vi ý nguyện của công dân, chỉ là người đại diện thể chế hóa ý nguyện của công dân thành luật pháp, và điều hành việc thực hiện dưới sự giám sát của công dân, thực sự là một chính quyền "của dân, do dân, vì dân" ... Tôn giáo ở đó vẫn tồn tại như một nhu cầu tâm linh thuần khiết, tự nhiên và tự nguyện ...

   Công đồng Vaticano II cũng xác định người tu sĩ không nên dấn thân sâu vào chính trị, nhiệm vụ quan trọng của họ là phụng sự Giáo Hội, ủng hộ Công Lý và Sự Thật.  Với Vaticano II, Giáo Hội Công Giáo đã thực sự làm mới lại mình. Đặc biệt, sự thay đổi quan điểm của Giáo Hội về các tôn giáo khác đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình đối thoại giữa các tôn giáo lớn trên thế giới. Gioan Phaolô II ( John Paul II ) là vị giáo hoàng đầu tiên công khai xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ, tổng cộng hơn 100 lần về những hành động sai trái của Giáo Hội Công Giáo, trong đó có sự kiện xưng thú 7 tội của Giáo Hội trước đám đông tại quảng trường Thánh Phêrô ( San Pietro ) vào ngày 12 / 3 / 2000. Ông cũng là vị giáo hoàng đầu tiên đứng ra hòa giải với Chính Thống Giáo Đông Phương và Do Thái Giáo, Anh Giáo ; là vị giáo hoàng đầu tiên đứng ra tổ chức cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo của các tôn giáo khác như Phật Giáo, Khổng Giáo, Chính Thống Giáo Đông Phương, Do Thái Giáo, Cao Đài và Hồi Giáo ; là vị giáo hoàng đầu tiên đến thăm một ngôi đền Hồi Giáo ở Syria ; là vị giáo hoàng đầu tiên tổ chức ra Ngày Giới Trẻ Thế Giới hằng năm ; và cũng là vị giáo hoàng đầu tiên đến thăm vùng Thánh Địa Jerusalem. Gioan Phaolô II cũng đã lên tiếng thừa nhận vai trò của thuyết Tiến Hóa, thuyết Nhật Tâm, nguồn gốc thế giới theo quan điểm khoa học ngày nay, phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường vật chất trên các tầng mây và một địa ngục vật chất nơi con người bị thiêu đốt như trong Thánh Kinh miêu tả ... Tuy nhiên, như nhiều nhà cải cách khác, giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng nhận nhiều lời chỉ trích dữ dội từ phía những người cấp tiến, vô thần cũng như từ giới Kitô Hữu bảo thủ.

   Nói tóm lại, dù có thay đổi ra sao, mức độ thế nào, Thế Quyền và Thần Quyền cũng vẫn sẽ luôn tồn tại song hành tương hỗ bên nhau, cùng giúp xã hội cân bằng, ổn định và phát triển !