Lão Tử, trong Đạo Đức Kinh, có viết :
( Chương 3 )
Bất thượng hiền,
Xử dân bất tranh.
Bất quý nan đắc chi hoá,
Xử dân bất vi đạo.
Bất kiến khả dục ,
Xử dân tâm bất loạn.
Thị dĩ thánh nhân chi trị :
Hư kì tâm ,
Thực kì phúc,
Nhược kì chí ,
Cường kì cốt.
Thường sử dân vô tri vô dục,
Xử phù trí giả bất cảm vi giả.
Vi vô vi,
Tắc vô bất trị.
Nghĩa là :
Không trọng người hiền,
Để cho dân không tranh.
Không quý của hiếm,
Để cho dân không trộm cướp.
Không phô bày điều ham muốn,
Để cho lòng dân không loạn.
Cho nên, chính trị của thánh nhân :
Lòng thì hư tĩnh,
Bụng thì no,
Tâm chí thì yếu ( không ham muốn, không tranh giành ),
Xương cốt thì mạnh.
Khiến cho dân không biết, không muốn,
Mà bọn trí xảo không dám hành động.
Làm theo vô vi,
Ắt không gì là không trị.
( Chương 7 )
Thiên trường địa cửu.
Thiên địa sở dĩ năng trường
Thả cửu giả
Dĩ kỳ bất tự sinh,
Cố năng trường sinh.
Thị dĩ Thánh nhân
Hậu kỳ thân nhi thân tiên,
Ngoại kỳ thân nhi thân tồn.
Phi dĩ kỳ vô tư dã
Cố năng thành kỳ tư ?
Nghĩa là :
Trời dài đất lâu.
Trời đất sở dĩ dài lâu
Là vì không sống cho mình,
Nên mới được trường sinh.
Vì vậy Thánh nhân
Để thân ra sau mà thân được trước,
Để thân ra ngoài mà thân được còn.
Phải chăng vì không riêng tư
Mà thành được việc riêng tư ?
( Chương 45 )
Đại thành nhược khuyết,
Kỳ dụng bất tệ.
Đại doanh nhược xung,
Kỳ dụng bất cùng.
Đại trực nhược khuất,
Đại xảo nhược chuyết,
Đại biện nhược nộn.
Tĩnh thắng táo,
Hàn thắng nhiệt.
Thanh tĩnh dĩ vi thiên hạ chính.
Nghĩa là :
Thành tựu mỹ mãn dường như dở dang,
Thì chỗ dùng của nó không hư được.
Đầy tràn dường như trống không,
Thì chỗ dùng của nó vô cùng.
Rất ngay thẳng dường như cong queo,
Rất khéo léo dường như vụng về,
Rất hùng biện dường như ấp úng.
Tĩnh thắng động,
Hàn thắng nhiệt.
Thanh tĩnh để làm chính thiên hạ.
( Chương 81, cuối cùng )
Tín ngôn bất mỹ,
Mỹ ngôn bất tín.
Thiện giả bất biện,
Biện giả bất thiện.
Tri giả bất bác,
Bác giả bất tri.
Thánh nhân bất tích,
Ký dĩ vi nhơn kỷ dũ hữu,
Ký dĩ dữ nhơn kỷ dũ đa.
Thiên chi Đạo, lợi nhi bất hại.
Thánh nhân chi đạo, vi nhi bất tranh.
Nghĩa là :
Lời thành thực không đẹp,
Lời đẹp không thành thực.
Người hiền không tranh biện,
Người tranh biện không hiền.
Người trí không học rộng,
Người học rộng không trí.
Thánh nhân không thu giữ,
Càng vì người, mình càng thêm có,
Càng cho người, mình càng thêm nhiều.
Đạo của Trời, lợi mà không hại.
Đạo của Thánh nhân, làm mà không tranh.
Đạo Đức Kinh chủ trương "Vô Vi" và đề cao tính "Thuần Phác", để đối trọng lại với tình trạng "Hữu Vi" và lạm dụng "Trí Thuật" trong xã hội Trung Quốc thời Tiên Tần, nên cũng lại bị xem là "cực Hữu Vi". Những lời trong Đạo Đức Kinh vốn để tồn tâm dưỡng tánh, tu thân, nên Lão Giáo đã trở thành một tôn giáo hơn là một thuật trị quốc, nhưng những kẻ làm chính trị cũng có thể biến các lời trên thành các chiêu trò để "mị dân" ...
William Shakespeare từng nói "Tên quỷ sứ cũng có thể trích dẫn kinh thánh để khai thác" ... "Cái gì của Ceasar thì trả lại cho Ceasar" ; "Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho ; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi" ; "Phúc cho những ai không thấy mà tin" ... là những câu vẫn thường hay bị viện dẫn với những mục đích thiếu trong sáng ( để xuyên tạc "tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng" ... chẳng hạn ) ...
Hàn Phi Tử thích cái học "Hình Danh" ( Hình là sự việc, Danh là lời nói. Hình danh phải hợp nhau, sự việc phải phù hợp với lời nói ), gốc của học thuyết này là ở Hoàng Đế, Lão Tử. Nhưng Hàn Phi lại chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Chủ trương "vô vi nhi trị" đó thực trái hẳn chủ trương của Lão Tử, Trang Tử, chính ra nó lại là một thứ cực "hữu vi" ...
Hàn Phi là học trò của Tuân Tử. Tư tưởng Tuân Tử có nhiều điểm tương đồng với Khổng - Mạnh, chủ trương "Quý Dân" và "Thượng Hiền" ...
- Thương dân nước sẽ mạnh, như câu "ái dân giả cường, bất ái dân giả nhược". ( Kẻ thương dân thì mạnh, kẻ không thương dân thì yếu ).
- Thương dân thì chúa sẽ an vị, như câu "Quân giả châu giã, thứ nhân giả thủy giã ; thủy tắc tải châu, thủy tắc phúc châu, thử chi vị giã. Cố quân nhân giả, dục an, tắc mạc nhược bình chính ái dân dĩ". ( Vua ví như thuyền, dân ví như nước ; nước chở được thuyền thì cũng lật được thuyền. Cho nên kẻ nắm quyền cai trị nếu muốn được an vị, thì chẳng còn cách nào hay bằng, thực hiện chính trị hòa bình và biết thương dân).
- Lập luận dân quý vua khinh, như câu "Thiên chi sinh dân, phi vi quân giã ; thiên chi lập quân, dĩ vi dân giã". ( Trời sinh ra dân, chẳng phải vì vua ; trời lập ra vua, ấy là vì dân). Điểm này hoàn toàn phù hợp với lời "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" của Mạnh Tử.
- Chọn hiền sĩ có thể giúp cho vua an vị, như câu "Tuyển hiền trưởng ... như thị tắc thứ nhân an chính ; thứ nhân an chính, nhiên hậu quân tử an vị". ( Tuyển dụng kẻ hiền tài giúp việc nước... như thế là dân sống yên nhờ chính trị tốt ; dân có yên chính, thì chúa mới yên vị được).
- Đức phải xứng với vị, như câu "Vô đức bất quý, vô năng bất quan, vô công bất thưởng, vô tội bất phạt" ( Kẻ thiếu đức không được ở địa vị cao sang, người kém tài thì không được làm quan, chẳng có công thì đừng thưởng, chẳng có tội thì đừng phạt ).
- Phê phán kẻ bất kính hiền, khác nào loài cầm thú, như câu "Nhân hiền nhi bất kính, tắc thị cầm thú giã". ( Không biết kính trọng kẻ hiền sĩ, tức là loài cầm thú vậy ).
Nhưng Tư tưởng của Hàn Phi Tử đối nghịch lại với tư tưởng của Nho Giáo ( vốn cho rằng để quản lý xã hội thì dùng Nhân Trị và Đức Trị ), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật : "Cái làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có thể làm điều riêng tư được nữa" ; "Pháp luật không hùa theo người sang ... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu".
Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy Tuân Tử một cách triệt để, bảo không gì thân bằng tình cha con, vậy mà có nhiều người cha sinh con trai thì nuôi, sinh con gái thì giết đi, coi cái lợi của mình nặng hơn tình ruột thịt như vậy là con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến Nhân Nghĩa, cũng không trọng Lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng "Thế", "Thuật", "Pháp" của Pháp Gia để trị nước.
Hàn Phi chịu ảnh hưởng của Mặc Tử. Mặc Tử chủ trương "Kiêm Ái", "Phi Công", "Thượng Đồng"...
- Tình thương bình đẳng và phổ cập. "Thiên hạ chi vi phụ mẫu giả chúng, nhi nhân giả quả". ( Dưới bầu trời, kẻ làm cha mẹ thì đông, nhưng người nhân đức thì hiếm ), và kẻ làm vua cũng rất ít có người nhân đức. Cho nên Mặc Tử chủ trương sống theo đức Trời, bởi chỉ có Trời mới "Kiêm nhi ái chi, kiêm nhi lợi chi" ( Trời thương tất cả làm lợi cho tất cả mọi người ).
- Can ngăn và chống lại những vụ thoán nghịch trong nội bộ các nước, dùng võ lực công phạt lẫn nhau giữa các nước.
- Dân phải tán đồng lẽ phải với người trên, phải cùng một quan niệm tốt xấu với người trên, không ai được có chủ trương riêng khác với chính sách của triều đình.
Hàn Phi ghét những người trị nước không trau dồi làm cho pháp chế sáng rõ, mà muốn dùng cái thế của mình để chế ngự bầy tôi, không lo việc làm cho nước giàu, binh mạnh bằng cách tìm người xứng đáng, dùng người hiền ; trái lại dùng những bọn tham nhũng, dâm loạn, sâu mọt, đặt chúng ở địa vị cao hơn những người có công lao và có thực tài. Hàn Phi cho rằng bọn nhà Nho dùng lời văn làm rối loạn luật pháp, bọn du hiệp dùng võ lực phạm đến điều ngăn cấm, gặp lúc yên ổn thì nhà vua dùng bọn ham danh, gặp lúc nguy cấp thì lại dùng kẻ sĩ mang giáp trụ. Như thế thành ra ngày nay người nhà vua nuôi lại không phải là những người nhà vua cần dùng, những người nhà vua cần dùng đều lại không phải những người nhà vua nuôi.
Pháp Trị là học thuyết duy nhất có sự kế thừa, hàm chứa những những yếu tố của những học thuyết khác nhiều nhất, nhờ đó tạo ra một phương thức giải quyết vững chắc, toàn vẹn và thực tế nhất trong vấn đề trị quốc : Lễ nghĩa, danh phận của Nho Gia được cụ thể hoá trong pháp luật ; Vô Vi của Lão Gia được chuyển hoá thành quan hệ biện chứng Vô Vi - Hữu Vi ; Kiêm Ái của Mặc Gia tuy là nội dung yếm thế nhất của học thuyết Pháp Trị, nhưng Hàn Phi vẫn coi đây là mục đích cuối cùng của pháp luật.
Nhờ học thuyết Pháp Trị, Tần Thuỷ Hoàng đã chấm dứt cục diện bách gia phân tranh thời tiên Tần, thống nhất Trung Quốc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên tại Trung Quốc.
Mặc dù vậy, cần phải thấy rằng, pháp luật mà Hàn Phi đề cao là thứ pháp luật hà khắc, tàn bạo, khác xa với pháp luật ngày nay ; con người phải vì pháp luật, chứ pháp luật không vì con người ; mặt khác, pháp luật dù ở vị trí thượng tôn, trên muôn dân, nhưng lại dưới một người ( nhà vua ). Đó là hạn chế của học thuyết Pháp Trị.
Bình luận của Tư Mã Thiên trong Sử ký :
Lão Tử chủ trương "đạo" thì "hư" không có nguồn gốc, biến hóa từ chỗ "vô vi", cho nên làm sách lời vi diệu, khó hiểu. Trang Tử nói rộng về "đạo" và "đức", nhưng điều chủ yếu trong học thuyết cũng quay về tự nhiên. Tuân Tử chăm chú trình bày về cái "danh" và cái "thực". Hàn Tử đưa ra tiêu chuẩn để xét sự việc, phân biệt điều phải điều trái. Học thuyết ông ta hết sức thảm khốc, ít dùng ân đức. Tất cả điều đó đều do học thuyết về "đạo" và "đức" mà ra. Chỉ có Lão Tử thực là sâu sắc và xa rộng vậy !
Nhận xét của Nguyễn Hiến Lê :
Cái học của Hàn Phi vẫn được thi hành ở Tần và giúp Tần Thủy Hoàng hoàn thành được công việc thống nhất Trung Quốc, lập chế độ quân chủ chuyên chế thay chế độ phong kiến. Trong thời kỳ của Hàn Phi, các học thuyết của Khổng, Mặc đã thất bại trong việc cứu vãn thời thế ; Hàn Phi đã thành công nhờ dùng trọn các thuyết của Pháp Gia. Phái Nhân Trị quá lý tưởng trong thời loạn, phải hạ lần lần lý tưởng của mình xuống : mới đầu Khổng Tử đề cao đức Nhân, sau Mạnh Tử hạ xuống mà trọng Nghĩa, Tuân Tử hạ xuống nữa, trọng Lễ mà chính môn sinh của ông cũng không theo, họ trọng Pháp, thấp nhất, và dẹp được loạn. Nhưng chính họ, từ Thương Ưởng đến Hàn Phi, Lý Tư, Triệu Cao, đều bất đắc kì tử và nhà Tần bị diệt. Hàn Phi được kể trong giai cấp cầm quyền thì tìm cách tăng cường thêm uy quyền của thiên tử, dùng mọi thủ đoạn quỷ quyệt, được so sánh với Machiavelli của Ý.
Ở phương Tây, Plato cũng tìm kiếm một mô hình "Thành Quốc Lý Tưởng" thông qua sự phân tích những ưu và khuyết điểm của các cơ chế Quý Tộc, Vị Danh ( Tài Bản ), Quả Đầu, Dân Chủ, Chuyên Chế ( Độc Tài ) ..., và dường như, ông cũng nghiêng về Pháp Trị ... Hãy nghe ông nói về cơ chế Dân Chủ :
- "Có phải thành quốc thay đổi từ chính thể quả đầu sang chính thể dân chủ là do quần chúng thèm khát cái quần chúng cho là tốt đẹp, do thả lỏng quần chúng theo đuổi mục đích làm giàu càng nhiều càng tốt không ?"
- "... chính thể dân chủ ra đời là khi người nghèo khó thắng thế, tàn sát một số giàu có, tống cổ một số đối lập lưu vong, cho quần chúng quyền bình đẳng, cơ hội tham gia chính quyền, bổ nhiệm chức vụ xã hội phần lớn theo nguyên tắc bốc thăm."
- "Có lẽ đây là một cơ chế hấp dẫn khủng khiếp. Như tấm áo thêu thùa đủ loại hoa hình, trình bày đủ loại màu sắc, tô điểm đủ loại nét vẻ con người, cơ chế trở nên lôi cuốn lạ kỳ. Vì thế, như đàn bà và trẻ con nom thấy đồ vật màu sắc sặc sỡ, đa số dân chúng nhận xét đó là hình thức xã hội tốt đẹp hơn hết."
- "Dáng dấp đĩnh đạt, oai vệ, cơ chế dân chủ quét sạch, chà đạp tất cả, không mảy may nghi ngờ quá khứ, lai lịch chính khách trước khi bước vào chính trường, song sẽ đề cao, miễn người đó tuyên bố là bạn của nhân dân, quyết tâm phục vụ mọi điều nhân dân ao ước !"
- "Có vẻ là cơ chế thú vị, bát nháo, tạp nham, đa màu, đa sắc, không người cầm đầu, phân chia đồng đều, coi mọi người bằng nhau, bất kể họ có bằng nhau hay không."
- "Vậy có phải thể chế chuyên chính phát xuất từ thể chế dân chủ theo cách tương tự như thể chế dân chủ ra đời từ thể chế quả đầu không ?"
- "... phải chăng thèm muốn tự do quá đáng, không quan tâm tới vấn đề khác, là động lực hủy hoại thể chế dân chủ dẫn đến chế độ chuyên chính ?"
- "... hình thức nô lệ man rợ, tàn nhẫn hơn hết bắt nguồn từ tự do quá độ."
... vv ...
Do đó, nền Dân Chủ của Hoa Kỳ đã được xây dựng dựa trên nguyên tắc "Tam Quyền Phân Lập" và đệ tứ quyền "Tự Do Ngôn Luận" kiểm soát lẫn nhau để kiềm chế tình trạng "tự do quá độ", Tự Do phải được hiểu là tự do trong khuôn khổ luật pháp chứ không phải là tự do vô chính phủ. Và phương thức bầu cử Tổng Thống ở Hoa Kỳ thực chất là người dân bầu cử tổng thống một cách gián tiếp thông qua các Đại Cử Tri, thành phần tinh hoa của xã hội do người dân chọn lọc trực tiếp, lá phiếu của các Đại Cử Tri mới mang giá trị quyết định ai là Tổng Thống !
Hiện nay, cơ chế Dân Trị trên cơ sở Tam Quyền Phân Lập và Đệ Tứ Quyền Tự Do Ngôn Luận của Mỹ có vẻ là một cơ chế hài hòa nhất giữa Nhân Trị và Pháp Trị ... Đương nhiên, một cách khách quan, mọi cơ chế đều bất toàn, "Dân Chủ là hình thức nhà nước tồi nhất … nếu không kể mọi hình thức khác đã được thử qua !" ( Winston Churchill ), và xã hội loài người vẫn đang tiến về phía trước để hoàn thiện ...
...
Dẫn giải dông dài như trên, là để thấy rằng : Khi sáng tạo, tiếp thu, chịu ảnh hưởng, hay phủ định, hoài nghi, phản biện, ... một triết thuyết nào, ngoài tri thức còn phải có một cái TÂM ... ; và trong việc trị quốc, dù Nhân Trị hay Pháp Trị, ngoài những "Thế", "Thuật", "Pháp", vẫn cần có một cái TÂM ...
Các tôn giáo, rốt ráo đều quy về TÂM : "Chúa ở trong TÂM mỗi chúng ta", "Phật tại TÂM" ...
Mở đầu Đạo Đức Kinh là câu "Đạo khả đạo phi thường Đạo, Danh khả danh phi thường Danh" - Đạo mà có thể bàn luận được thì không phải là Đạo thường hằng, Danh mà có thể gọi được thì không phải Danh bất biến. Đạo là bất khả tư nghì, không thể hiểu biết được bằng lý trí, chỉ có thể cảm nhận được bằng tình cảm, TÂM ...
Mở đầu Thạch Sa Tập là câu chuyện khai TÂM : "Một Tách Trà".
Nanin, một thiền sư Nhật sống vào thời Minh Trị ( 1868 - 1912 ), tiếp một giáo sư đại học đến hỏi về Thiền. Nanin mời trà. Ông đã rót đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm.
Vị giáo sư ngồi nhìn trong tách tràn ra cho đến khi không kiềm mình được nữa : Đầy quá rồi. Xin đừng rót nữa.
Ông giống như cái tách này. Nanin nói : Ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông. Làm sao tôi có thể bày tỏ thiền cho ông được, trừ phi ông cạn cái tách của ông trước ?
CHỈ CÓ TỪ "TÂM", MỚI CÓ THỂ ĐẠT ĐẾN ĐƯỢC GIÁC NGỘ ...
CHỈ CÓ TỪ "TÂM", MỚI CÓ THỂ THỤ ĐẮC ĐƯỢC KIẾN THỨC ...
CHỈ CÓ TỪ "TÂM", MỚI CÓ THỂ HOÀN THIỆN ĐƯỢC VIỆC TRỊ QUỐC ... ! ...