DƯỢC MÃ HOÀNH QUA TỔNG BẠCH ĐẦU
...
ĐA THIỂU ANH HÙNG CHỈ PHẾ KHÂU
( HÀ XỨ THỐI NGÔ CÂU - Nạp Lan Tính Đức ).
Gò cương ngựa, xoay ngang ngọn giáo, ngoảnh lại, thấy tất cả mái đầu đều đã bạc,
...
Anh hùng nhiều ít, chỉ còn là những mả mồ hoang phế ... ! ...
Thơ Biên Tái, có khi xuất ra những dòng thật hào sảng :
THIẾU NIÊN HÀNH
Lệnh Hồ Sở
CUNG BỐI HÀ MINH KIẾM CHIẾU SƯƠNG
THU PHONG TẨU MÃ XUẤT HÀM DƯƠNG
VỊ THU THIÊN TỬ HÀ HOÀNG ĐỊA
BẤT NGHĨ HỒI ĐẦU VỌNG CỐ HƯƠNG
BÀI HÀNH THIẾU NIÊN
Cung đeo sáng trên lưng, kiếm chiếu ánh sương,
Trong gió thu, phi ngựa rời khỏi Hàm Dương,
Nếu không thu lại được đất Hà Hoàng của Thiên Tử,
Thề không nghĩ đến chuyện quay đầu ngóng cố hương !
TÒNG QUÂN HÀNH
Vương Xương Linh
THANH HẢI TRƯỜNG VÂN ÁM TUYẾT SAN
CÔ THÀNH DAO VỌNG NHẠN MÔN QUAN
HOÀNG SA BẮC CHIẾN XUYÊN KIM GIÁP
BẤT PHÁ LÂU LAN CHUNG BẤT HOÀN
BÀI HÀNH TÒNG QUÂN
Biển xanh, mây trải dài che mờ núi tuyết,
Từ ngôi thành cô độc ngóng về hướng Ải Nhạn Môn,
Cát vàng ở chiến trường phía Bắc bay xuyên qua lớp giáp sắt,
Thề không phá được giặc Lâu Lan thì không trở về !
Thường khi, hào sảng pha lẫn ngậm ngùi :
LƯƠNG CHÂU TỪ
Vương Hàn
BỒ ĐÀO MỸ TỬU DẠ QUANG BÔI
DỤC ẨM TỲ BÀ MÃ THƯỢNG THÔI
TÚY NGỌA SA TRƯỜNG QUÂN MẠC TIẾU
CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI
BÀI TỪ ĐẤT LƯƠNG CHÂU
Rượu ngon Bồ Đào đựng trong chén ngọc Dạ Quang,
Muốn uống thì tiếng đàn Tỳ Bà đã giục giã lên ngựa,
Nếu có say khước nằm giữa bãi sa trường, anh cũng chớ có cười,
Vì xưa nay đi chinh chiến có mấy ai được trở về ... !? ...
XUẤT TÁI
Vương Xương Linh
TẦN THỜI MINH NGUYỆT HÁN THỜI QUAN
VẠN LÝ TRƯỜNG CHINH NHÂN VỊ HOÀN
ĐÃN SỬ LONG THÀNH PHI TƯỚNG TẠI
BẤT GIAO HỒ MÃ ĐỘ ÂM SAN
RA BIÊN ẢI
Trăng sáng thời Tần, ải quan thời Hán,
Muôn dặm chiến chinh, người đi chưa trở về,
Nếu như Phi Tướng ở Long Thành mà còn sống,
Quyết chẳng để ngựa Hồ qua núi Âm Sơn ... ! ...
LŨNG TÂY HÀNH
Trần Đào
THỆ TẢO HUNG NÔ BẤT CỐ THÂN
NGŨ THIÊN ĐIÊU CẨM TÁNG HỒ TRẦN
KHẢ LIÊN VÔ ĐỊNH HÀ BIÊN CỐT
DO THỊ XUÂN KHUÊ MỘNG LÝ TÌNH
BÀI HÀNH ĐẤT LŨNG TÂY
Thề quét sạch Hung Nô chẳng tiếc thân,
Năm ngàn tráng sĩ mũ lông điêu, áo gấm đã vùi xác trong bụi đất Hồ,
Đáng thương cho nắm xương tàn bên sông Vô Định,
Vẫn còn là người tình trong mộng của khách xuân thì ở chốn phòng khuê ... ! ...
TÁI HẠ KHÚC
Vương Xương Linh
ẨM MÃ ĐỘ THU THỦY
THỦY HÀN PHONG TỰ ĐAO
BÌNH SA NHẬT VỊ MỘT
ẢM ẢM KIẾN LÂM THAO
TÍCH NHẬT TRƯỜNG THÀNH CHIẾN
HÀM NGÔN Ý KHÍ CAO
HOÀNG TRẦN TÚC KIM CỔ
BẠCH CỐT LOẠN BỒNG CAO
KHÚC HÁT DƯỚI CỬA ẢI
Ngựa uống nước, lội qua sông thu,
Nước lạnh, gió như dao cắt,
Trên cát bằng, mặt trời chưa lặn,
Lờ mờ còn thấy Lâm Thao,
Trong trận Trường Thành ngày trước,
Ai cũng nói là khí quân rất hăng,
Bụi vàng đầy rẩy từ xưa đến giờ,
Xương trắng còn nằm lẫn lộn trong đám tranh sậy ... ! ...
Nhiều khi, ... chỉ có ngậm ngùi :
KHUÊ OÁN
Vương Xương Linh
KHUÊ TRUNG THIẾU PHỤ BẤT TRI SẦU
XUÂN NHẬT NGƯNG TRANG THƯỚNG THÚY LÂU
HỐT KIẾN MẠCH ĐẦU DƯƠNG LIỄU SẮC
HỐI GIAO PHU TẾ MỊCH PHONG HẦU
NỖI OÁN NƠI PHÒNG KHUÊ
Trong phòng khuê, nàng trẻ tuổi không biết sầu,
Ngày xuân trang điểm xong, bước lên lầu thúy ngắm cảnh,
Chợt trông thấy sắc dương liễu mơn mởn xanh ở nơi đầu nguồn,
Tiếc vì đã xui chồng đi chinh chiến xa để kiếm ấn phong hầu ... ! ...
ĐỀ MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN
Sầm Than
MỤC TÚC PHONG BIÊN PHÙNG LẬP XUÂN
HỒ LÔ HÀ THƯỢNG LỆ TRIÊM CÂN
KHUÊ TRUNG CHỈ THỊ KHÔNG TƯƠNG ỨC
BẤT KIẾN SA TRƯỜNG SẦU SÁT NHÂN
TRÊN ĐỈNH NÚI MỤC TÚC VIẾT THƯ GỬI NGƯỜI NHÀ
Đỉnh núi Mục Túc, nơi biên cương, gặp tiết lập xuân,
Trên sông Hồ Lô, nước mắt ướt đẩm khăn,
Chốn phòng khuê, nếu như ai có thương nhớ,
Cũng không thể thấy được nơi sa trường, nỗi sầu có thể làm chết người ... ! ...
XUẤT TÁI ( LƯƠNG CHÂU TỪ )
Vương Chi Hoán
HOÀNG HÀ VIỄN THƯỚNG BẠCH VÂN GIAN
NHẤT PHIẾN CÔ THÀNH VẠN NHẬN SAN
KHƯƠNG ĐỊCH HÀ TU OÁN DƯƠNG LIỄU
XUÂN PHONG BẤT ĐỘ NGỌC MÔN QUAN
RA BIÊN ẢI
Sông Hoàng Hà chảy xa tận khoảng mây trắng,
Một cánh buồm lẻ loi, một ngôi thành cô độc trên núi cao muôn trượng,
Sáo người Khương thổi làm chi bài Oán Dương Liễu,
Vì gió xuân đâu có thổi qua Ải Ngọc Môn ... ! ...
PHÙNG NHẬP KINH SỨ
Sầm Tham
CỐ VIÊN ĐÔNG VỌNG LỘ MAN MAN
SONG TỰ LONG CHUNG LỆ BẤT CAN
MÃ THƯỢNG TƯƠNG PHÙNG VÔ CHỈ BÚT
BẰNG QUÂN TRUYỀN NGỮ BÁO BÌNH AN
GẶP SỨ GIẢ VỀ KINH
Ngóng về hướng đông nơi quê nhà, đường dài hun hút,
Hai tay áo thõng, nước mắt không cạn.
Ở trên lưng ngựa gặp nhau, không có bút trong tay,
Nhờ anh nhắn tin báo rằng tôi vẫn được bình yên ... ! ...
Và, ... có cả những tiếng lòng "phản chiến" :
KỶ HỢI TUẾ
Tào Tùng
TRẠCH QUỐC GIANG SƠN NHẬP CHIẾN ĐỒ
SINH DÂN HÀ KẾ LẠC TIỀU TÔ
BẰNG QUÂN MẠC THOẠI CÔNG HẦU SỰ
NHẤT TƯỚNG CÔNG THÀNH VẠN CỐT KHÔ
NĂM KỶ HỢI
Sông núi ở vùng đầm lầy Giang Nam đã sa vào vòng chiến loạn,
Khiến cho muôn dân mất đường sinh sống trong cảnh an lạc đốn củi, cắt cỏ.
Anh bạn xin đừng nói đến chuyện công hầu,
Vì hể có một tướng nên công thì có vạn người chết phơi thây ... ! ...
TIỀN XUẤT TÁI
Đỗ Phủ
THÍCH THÍCH KHỨ CỐ LÝ
DU DU PHÓ GIAO HÀ
CÔNG GIA HỮU TRÌNH KỲ
VONG MỆNH ANH HỌA LA
QUÂN DĨ PHÚ THỔ CẢNH
KHAI BIÊN NHẤT HÀ ĐA
KHÍ TUYỆT PHỤ MẪU ÂN
THÔN THANH HÀNH PHỤ QUA
TRƯỚC KHI RA BIÊN ẢI
Bịn rịn lìa xa quê cũ,
Vời vợi ra đi nhắm hướng Giao Hà.
Lệnh quan đã định hạn kỳ lên đường,
Ai trốn tránh sẽ mang tai hoạ.
Vua đã giàu có đất đai,
Sao còn mở bờ cõi chi cho nhiều vậy ?
Nỡ để cho mọi người phải vứt hết ơn cha mẹ,
Nghẹn ngào mà vác giáo lên đường ... ! ...
HẬU XUẤT TÁI
Đỗ Phủ
HIẾN KHẢI NHẬT KẾ CHỦNG
LƯỠNG PHỒN TĨNH VÔ NGU
NGƯ DƯƠNG HÀO HIỆP ĐỊA
KÍCH CỔ XUY SINH VU
VÂN PHÀM CHUYỂN LIÊU HẢI
CANH ĐẠO LAI ĐÔNG NGÔ
VIỆT LA DỮ SỞ LUYỆN
CHIẾU DIỆU DƯ ĐÀI KHU
CHỦ TƯỚNG VỊ ÍCH SÙNG
KHÍ KIÊU LĂNG THƯỢNG ĐÔ
BIÊN NHÂN BẤT CẢM NGHỊ
NGHỊ GIẢ TỬ LỘ CÙ
SAU KHI RA BIÊN ẢI
Tin thắng trận báo dồn dập từng ngày,
Hai nước Phiên vẫn yên tĩnh.
Ngư Dương là đất hào hiệp,
Trống giục, sáo thổi vi vu.
Buồm mây chuyển qua Liêu Hải,
Lúa gạo đến từ Đông Ngô.
Lụa nước Việt và tơ nước Sở,
Chiếu sáng trên mình quân hầu.
Chủ tướng càng tăng thêm địa vị,
Kiêu ngạo lấn át cả quyền vua.
Kẻ ở ngoài biên không ai dám bàn tán,
Ai bàn tán, sẽ phải chết không có mồ chôn ... ! ...
Ở ta, trong những giai đoạn chiến tranh phá Tống bình Chiêm của nhà Tiền Lê - Lý, âm hưởng hào sảng của dòng thơ Biên Tái có thể nhận thấy qua bài "thơ thần" :
NAM QUỐC SƠN HÀ
NAM QUỐC SƠN HÀ NAM ĐẾ CƯ
TIỆT NHIÊN ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ
NHƯ HÀ NGHỊCH LỖ LAI XÂM PHẠM
NHỮ ĐẲNG HÀNH KHAN THỦ BẠI HƯ
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành đã định phận tại sách trời,
Cớ sao nghịch tặc lại sang xâm phạm,
Nhất định chúng bay sẽ chuốc lấy bại vong.
Đời Trần, trong những cuộc kháng chiến oanh liệt chống Nguyên Mông, đội quân xâm lược hùng mạnh thiện chiến nhất thời đại, hào khí Đông A đã được thể hiện qua những bài thơ :
XUÂN NHẬT YẾT CHIÊU LĂNG
Trần Nhân Tông
TÌ HỔ THIÊN MÔN TÚC
Y QUAN THẤT PHẨM THÔNG
BẠCH ĐẦU QUÂN SĨ TẠI
VÃNG VÃNG THUYẾT NGUYÊN PHONG
NGÀY XUÂN THĂM CHIÊU LĂNG
Nghìn cửa quân tì hổ uy vũ,
Các quan thất phẩm áo mũ đầy đủ.
Quân sĩ có người đầu bạc vẫn còn.
Thường thường kể chuyện thời Nguyên Phong
TÒNG GIÁ HOÀN KINH
Trần Quang Khải
ĐOẠT SÁO CHƯƠNG DƯƠNG ĐỘ
CẦM HỒ HÀM TỬ QUAN
THÁI BÌNH TU TRÍ LỰC
VẠN CỔ THỬ GIANG SAN
THEO VUA VỀ KINH SƯ
Cướp giáo ở bến Chương Dương,
Bắt giặc ở cửa Hàm Tử,
Muốn thái bình thì phải nên gắng sức,
Nước non này sẽ vững bền muôn thuở ... ! ...
THUẬT HOÀI
Phạm Ngũ Lão
HOÀNH SÓC GIANG SƠN KHÁP KỶ THU
TAM QUÂN TÌ HỔ KHÍ THÔN NGƯU
NAM NHI VỊ LIỄU CÔNG DANH TRÁI
TU THÍNH NHÂN GIAN THUYẾT VŨ HẦU
TỎ LÒNG
Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng át cả sao Ngưu.
Thân nam nhi nếu chưa trả xong món nợ công danh,
Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu.
BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ của Trương Hán Siêu đời Trần, khi chiến tranh đã lùi xa, cũng phảng phất cái phong vị hào sảng pha lẫn ngậm ngùi :
... TIẾP KÌNH BA Ư VÔ TẾ, TRÁM DIÊU VĨ CHI TƯƠNG MÂU
THỦY THIÊN NHẤT SẮC, PHONG CẢNH TAM THU
CHỮ ĐỊCH NGẠN LÔ, SẮT SẮT SƯU SƯU
CHIẾT KÍCH TRẦM GIANG, KHÔ CỐT DOANH KHÂU
THẢM NHIÊN BẤT LẠC, TRỮ LẬP NGƯNG MÂU
NIỆM HÀO KIỆT CHI DĨ VÃNG, THÁN TÔNG TÍCH CHI KHÔNG LƯU ...
... Bát ngát sóng kình muôn dặm, thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.
Bến lách bờ lau, quạnh quẽ đìu hiu.
Giáo gãy chìm sông, cốt khô đầy gò.
Bất giác ngậm ngùi, lặng tưởng phù du.
Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá, than rày dấu tích hãy còn lưu ... ! ...
CẢM HOÀI của Đặng Dung cũng mang nặng nỗi niềm trung phẫn của một chiến tướng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh của nhà Hậu Trần :
THẾ SỰ DU DU NẠI LÃO HÀ
VÔ CÙNG THIÊN ĐỊA NHẬP HÀM CA
THỜI LAI ĐỒ ĐIẾU THÀNH CÔNG DỊ
VẬN KHỨ ANH HÙNG ẨM HẬN ĐA
TRÍ CHỦ HỮU HOÀI PHÙ ĐỊA TRỤC
TẨY BINH VÔ LỘ VÃN THIÊN HÀ
QUỐC THÙ VỊ PHỤC ĐẦU TIÊN BẠCH
KỶ ĐỘ LONG TUYỀN ĐÁI NGUYỆT MA
Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào ?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng suông.
CHINH PHỤ NGÂM KHÚC của Đặng Trần Côn, qua bản dịch của Đoàn Thị Điểm, trải qua bao cơn binh lửa Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn, ... cũng đầy hào sảng và ngậm ngùi :
THIÊN ĐỊA PHONG TRẦN
HỒNG NHAN ĐA TRUÂN
DU DU BI THƯƠNG HỀ THÙY TẠO NHÂN
CỔ BỀ THANH ĐỘNG TRƯỜNG THÀNH NGUYỆT
PHONG HỎA ẢNH CHIẾU CAM TUYỀN VÂN
CỬU TRÙNG ÁN KIẾM KHỞI ĐƯƠNG TỊCH
BÁN DẠ PHI HỊCH TRUYỀN TƯỚNG QUÂN
THANH BÌNH TAM BÁCH NIÊN THIÊN HẠ
TÙNG THỬ NHUNG Y THUỘC VŨ THẦN
SỨ TINH THIÊN MÔN THÔI HIỂU PHÁT
HÀNH NHÂN TRỌNG PHÁP KHINH LY BIỆT
CUNG TIỄN HỀ TẠI YÊU
THÊ NOA HỀ BIỆT KHUYẾT
LIỆP LIỆP TINH KỲ HỀ XUẤT TÁI SẦU
HUYÊN HUYÊN TIÊU CỔ HỀ TỪ GIA OÁN
HỮU OÁN HỀ PHÂN HUỀ
HỮU SẦU HỀ KHẾ KHOÁT
...
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
Nước thanh bình ba trăm năm cũ
Áo nhung trao quan vũ từ đây
Sứ trời sớm giục đường mây
Phép công là trọng, niềm tây sá nào
Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
Bóng cờ tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng
...
Thời tiền chiến, trước 1945, thơ ca Việt Nam cũng có cái phong vị hào sảng và ngậm ngùi, nhuốm thêm chút màu lãng mạn khói sương :
TỐNG BIỆT HÀNH
Thâm Tâm
Đưa người ta không đưa sang sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng ...
Ly khách ! Ly khách ! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại,
Ba năm mẹ già cũng đừng mong !
Ta biết người buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt.
Một chị, hai chị cũng như sen,
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay,
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay.
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc,
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay ...
Người đi ? Ừ nhỉ, người đi thực !
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say ...
( 1940 )
Rồi đi vào cuộc kháng chiến chín năm 1945 - 1954 :
TÂY TIẾN
Quang Dũng
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
( Phù Lưu Chanh - 1948 )
MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
Quang Dũng
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Vầng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương ?
Mẹ tôi, em có gặp đâu không
Bao xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông !
Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn !
Đất đá ong khô nhiều suối lệ
Em đã bao ngày lệ chứa chan ?
Đôi mắt người Sơn Tây
U ẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Tôi gửi niềm nhớ thương
Em mang giùm tôi nhé
Ngày trở lại quê hương
Khúc hoàn ca rớm lệ
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoát thổi đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta ?
(1949)
MÀU TÍM HOA SIM
Hữu Loan
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
Rồi đến cuộc chiến 1954 - 1975 :
Cái âm hưởng "hào sảng" ấy, ta lại thấy trùng trùng trong thơ ca ở Miền Bắc Việt Nam ...
Cái âm hưởng ngậm ngùi ấy, ta lại thấy điệp điệp trong thơ ca ở Miền Nam Việt Nam ...
Hãy "đọc", "nghe", và "cảm" ... ! ...
...
Và "ngẫm ngợi" ... ! ... ! ... ! ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét