Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

BIÊN TÁI

   DƯỢC MÃ HOÀNH QUA TỔNG BẠCH ĐẦU

   ...

   ĐA THIỂU ANH HÙNG CHỈ PHẾ KHÂU

   ( HÀ XỨ THỐI NGÔ CÂU - Nạp Lan Tính Đức ).

   Gò cương ngựa, xoay ngang ngọn giáo, ngoảnh lại, thấy tất cả mái đầu đều đã bạc,
   ...
   Anh hùng nhiều ít, chỉ còn là những mả mồ hoang phế ... ! ...



   Thơ Biên Tái, có khi xuất ra những dòng thật hào sảng :


   THIẾU NIÊN HÀNH
   Lệnh Hồ Sở

   CUNG BỐI HÀ MINH KIẾM CHIẾU SƯƠNG
   THU PHONG TẨU MÃ XUẤT HÀM DƯƠNG
   VỊ THU THIÊN TỬ HÀ HOÀNG ĐỊA
   BẤT NGHĨ HỒI ĐẦU VỌNG CỐ HƯƠNG


   BÀI HÀNH THIẾU NIÊN 

   Cung đeo sáng trên lưng, kiếm chiếu ánh sương,
   Trong gió thu, phi ngựa rời khỏi Hàm Dương,
   Nếu không thu lại được đất Hà Hoàng của Thiên Tử,
   Thề không nghĩ đến chuyện quay đầu ngóng cố hương ! 


   TÒNG QUÂN HÀNH
   Vương Xương Linh

   THANH HẢI TRƯỜNG VÂN ÁM TUYẾT SAN
   CÔ THÀNH DAO VỌNG NHẠN MÔN QUAN
   HOÀNG SA BẮC CHIẾN XUYÊN KIM GIÁP
   BẤT PHÁ LÂU LAN CHUNG BẤT HOÀN


   BÀI HÀNH TÒNG QUÂN

   Biển xanh, mây trải dài che mờ núi tuyết,
   Từ ngôi thành cô độc ngóng về hướng Ải Nhạn Môn,
   Cát vàng ở chiến trường phía Bắc bay xuyên qua lớp giáp sắt,
   Thề không phá được giặc Lâu Lan thì không trở về !



   Thường khi, hào sảng pha lẫn ngậm ngùi :


   LƯƠNG CHÂU TỪ
   Vương Hàn

   BỒ ĐÀO MỸ TỬU DẠ QUANG BÔI
   DỤC ẨM TỲ BÀ MÃ THƯỢNG THÔI
   TÚY NGỌA SA TRƯỜNG QUÂN MẠC TIẾU
   CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI


   BÀI TỪ ĐẤT LƯƠNG CHÂU

   Rượu ngon Bồ Đào đựng trong chén ngọc Dạ Quang,
   Muốn uống thì tiếng đàn Tỳ Bà đã giục giã lên ngựa,
   Nếu có say khước nằm giữa bãi sa trường, anh cũng chớ có cười,
   Vì xưa nay đi chinh chiến có mấy ai được trở về ... !? ...


   XUẤT TÁI 
   Vương Xương Linh

   TẦN THỜI MINH NGUYỆT HÁN THỜI QUAN
   VẠN LÝ TRƯỜNG CHINH NHÂN VỊ HOÀN
   ĐÃN SỬ LONG THÀNH PHI TƯỚNG TẠI
   BẤT GIAO HỒ MÃ ĐỘ ÂM SAN


   RA BIÊN ẢI

   Trăng sáng thời Tần, ải quan thời Hán,
   Muôn dặm chiến chinh, người đi chưa trở về,
   Nếu như Phi Tướng ở Long Thành mà còn sống,
   Quyết chẳng để ngựa Hồ qua núi Âm Sơn ... ! ...


   LŨNG TÂY HÀNH 
   Trần Đào

   THỆ TẢO HUNG NÔ BẤT CỐ THÂN
   NGŨ THIÊN ĐIÊU CẨM TÁNG HỒ TRẦN
   KHẢ LIÊN VÔ ĐỊNH HÀ BIÊN CỐT
   DO THỊ XUÂN KHUÊ MỘNG LÝ TÌNH


   BÀI HÀNH ĐẤT LŨNG TÂY

   Thề quét sạch Hung Nô chẳng tiếc thân,
   Năm ngàn tráng sĩ mũ lông điêu, áo gấm đã vùi xác trong bụi đất Hồ,
   Đáng thương cho nắm xương tàn bên sông Vô Định,
   Vẫn còn là người tình trong mộng của khách xuân thì ở chốn phòng khuê ... ! ...


   TÁI HẠ KHÚC
   Vương Xương Linh

   ẨM MÃ ĐỘ THU THỦY
   THỦY HÀN PHONG TỰ ĐAO
   BÌNH SA NHẬT VỊ MỘT
   ẢM ẢM KIẾN LÂM THAO
   TÍCH NHẬT TRƯỜNG THÀNH CHIẾN
   HÀM NGÔN Ý KHÍ CAO
   HOÀNG TRẦN TÚC KIM CỔ
   BẠCH CỐT LOẠN BỒNG CAO


   KHÚC HÁT DƯỚI CỬA ẢI

   Ngựa uống nước, lội qua sông thu,
   Nước lạnh, gió như dao cắt,
   Trên cát bằng, mặt trời chưa lặn,
   Lờ mờ còn thấy Lâm Thao,
   Trong trận Trường Thành ngày trước,
   Ai cũng nói là khí quân rất hăng,
   Bụi vàng đầy rẩy từ xưa đến giờ,
   Xương trắng còn nằm lẫn lộn trong đám tranh sậy ... ! ...



   Nhiều khi, ... chỉ có ngậm ngùi :


   KHUÊ OÁN
   Vương Xương Linh

   KHUÊ TRUNG THIẾU PHỤ BẤT TRI SẦU
   XUÂN NHẬT NGƯNG TRANG THƯỚNG THÚY LÂU
   HỐT KIẾN MẠCH ĐẦU DƯƠNG LIỄU SẮC
   HỐI GIAO PHU TẾ MỊCH PHONG HẦU


   NỖI OÁN NƠI PHÒNG KHUÊ

   Trong phòng khuê, nàng trẻ tuổi không biết sầu,
   Ngày xuân trang điểm xong, bước lên lầu thúy ngắm cảnh,
   Chợt trông thấy sắc dương liễu mơn mởn xanh ở nơi đầu nguồn,
   Tiếc vì đã xui chồng đi chinh chiến xa để kiếm ấn phong hầu ... ! ...


   ĐỀ MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN
   Sầm Than

   MỤC TÚC PHONG BIÊN PHÙNG LẬP XUÂN
   HỒ LÔ HÀ THƯỢNG LỆ TRIÊM CÂN
   KHUÊ TRUNG CHỈ THỊ KHÔNG TƯƠNG ỨC
   BẤT KIẾN SA TRƯỜNG SẦU SÁT NHÂN


   TRÊN ĐỈNH NÚI MỤC TÚC VIẾT THƯ GỬI NGƯỜI NHÀ

   Đỉnh núi Mục Túc, nơi biên cương, gặp tiết lập xuân,
   Trên sông Hồ Lô, nước mắt ướt đẩm khăn,
   Chốn phòng khuê, nếu như ai có thương nhớ,
   Cũng không thể thấy được nơi sa trường, nỗi sầu có thể làm chết người ... ! ...


   XUẤT TÁI ( LƯƠNG CHÂU TỪ )
   Vương Chi Hoán

   HOÀNG HÀ VIỄN THƯỚNG BẠCH VÂN GIAN
   NHẤT PHIẾN CÔ THÀNH VẠN NHẬN SAN
   KHƯƠNG ĐỊCH HÀ TU OÁN DƯƠNG LIỄU
   XUÂN PHONG BẤT ĐỘ NGỌC MÔN QUAN


   RA BIÊN ẢI

   Sông Hoàng Hà chảy xa tận khoảng mây trắng,
   Một cánh buồm lẻ loi, một ngôi thành cô độc trên núi cao muôn trượng,
   Sáo người Khương thổi làm chi bài Oán Dương Liễu,
   Vì gió xuân đâu có thổi qua Ải Ngọc Môn ... ! ...


   PHÙNG NHẬP KINH SỨ
   Sầm Tham

   CỐ VIÊN ĐÔNG VỌNG LỘ MAN MAN
   SONG TỰ LONG CHUNG LỆ BẤT CAN
   MÃ THƯỢNG TƯƠNG PHÙNG VÔ CHỈ BÚT
   BẰNG QUÂN TRUYỀN NGỮ BÁO BÌNH AN


   GẶP SỨ GIẢ VỀ KINH

   Ngóng về hướng đông nơi quê nhà, đường dài hun hút, 
   Hai tay áo thõng, nước mắt không cạn. 
   Ở trên lưng ngựa gặp nhau, không có bút trong tay, 
   Nhờ anh nhắn tin báo rằng tôi vẫn được bình yên ... ! ...



   Và, ... có cả những tiếng lòng "phản chiến" :


   KỶ HỢI TUẾ
   Tào Tùng

   TRẠCH QUỐC GIANG SƠN NHẬP CHIẾN ĐỒ
   SINH DÂN HÀ KẾ LẠC TIỀU TÔ
   BẰNG QUÂN MẠC THOẠI CÔNG HẦU SỰ
   NHẤT TƯỚNG CÔNG THÀNH VẠN CỐT KHÔ


   NĂM KỶ HỢI

   Sông núi ở vùng đầm lầy Giang Nam đã sa vào vòng chiến loạn,
   Khiến cho muôn dân mất đường sinh sống trong cảnh an lạc đốn củi, cắt cỏ.
   Anh bạn xin đừng nói đến chuyện công hầu,
   Vì hể có một tướng nên công thì có vạn người chết phơi thây ... ! ...


   TIỀN XUẤT TÁI
   Đỗ Phủ

   THÍCH THÍCH KHỨ CỐ LÝ
   DU DU PHÓ GIAO HÀ
   CÔNG GIA HỮU TRÌNH KỲ
   VONG MỆNH ANH HỌA LA
   QUÂN DĨ PHÚ THỔ CẢNH
   KHAI BIÊN NHẤT HÀ ĐA
   KHÍ TUYỆT PHỤ MẪU ÂN
   THÔN THANH HÀNH PHỤ QUA


   TRƯỚC KHI RA BIÊN ẢI

   Bịn rịn lìa xa quê cũ, 
   Vời vợi ra đi nhắm hướng Giao Hà. 
   Lệnh quan đã định hạn kỳ lên đường, 
   Ai trốn tránh sẽ mang tai hoạ. 
   Vua đã giàu có đất đai, 
   Sao còn mở bờ cõi chi cho nhiều vậy ?
   Nỡ để cho mọi người phải vứt hết ơn cha mẹ,
   Nghẹn ngào mà vác giáo lên đường ... ! ...


   HẬU XUẤT TÁI
   Đỗ Phủ

   HIẾN KHẢI NHẬT KẾ CHỦNG
   LƯỠNG PHỒN TĨNH VÔ NGU
   NGƯ DƯƠNG HÀO HIỆP ĐỊA
   KÍCH CỔ XUY SINH VU
   VÂN PHÀM CHUYỂN LIÊU HẢI
   CANH ĐẠO LAI ĐÔNG NGÔ
   VIỆT LA DỮ SỞ LUYỆN
   CHIẾU DIỆU DƯ ĐÀI KHU
   CHỦ TƯỚNG VỊ ÍCH SÙNG
   KHÍ KIÊU LĂNG THƯỢNG ĐÔ
   BIÊN NHÂN BẤT CẢM NGHỊ
   NGHỊ GIẢ TỬ LỘ CÙ


   SAU KHI RA BIÊN ẢI

   Tin thắng trận báo dồn dập từng ngày, 
   Hai nước Phiên vẫn yên tĩnh. 
   Ngư Dương là đất hào hiệp, 
   Trống giục, sáo thổi vi vu. 
   Buồm mây chuyển qua Liêu Hải, 
   Lúa gạo đến từ Đông Ngô. 
   Lụa nước Việt và tơ nước Sở, 
   Chiếu sáng trên mình quân hầu.
   Chủ tướng càng tăng thêm địa vị, 
   Kiêu ngạo lấn át cả quyền vua. 
   Kẻ ở ngoài biên không ai dám bàn tán,
   Ai bàn tán, sẽ phải chết không có mồ chôn ... ! ...



   Ở ta, trong những giai đoạn chiến tranh phá Tống bình Chiêm của nhà Tiền Lê - Lý, âm hưởng hào sảng của dòng thơ Biên Tái có thể nhận thấy qua bài "thơ thần" :


   NAM QUỐC SƠN HÀ 

   NAM QUỐC SƠN HÀ NAM ĐẾ CƯ
   TIỆT NHIÊN ĐỊNH PHẬN TẠI THIÊN THƯ
   NHƯ HÀ NGHỊCH LỖ LAI XÂM PHẠM
   NHỮ ĐẲNG HÀNH KHAN THỦ BẠI HƯ


   SÔNG NÚI NƯỚC NAM

   Sông núi nước Nam vua Nam ở,
   Rành rành đã định phận tại sách trời,
   Cớ sao nghịch tặc lại sang xâm phạm,
   Nhất định chúng bay sẽ chuốc lấy bại vong.



   Đời Trần, trong những cuộc kháng chiến oanh liệt chống Nguyên Mông, đội quân xâm lược hùng mạnh thiện chiến nhất thời đại, hào khí Đông A đã được thể hiện qua những bài thơ :


   XUÂN NHẬT YẾT CHIÊU LĂNG
   Trần Nhân Tông

   TÌ HỔ THIÊN MÔN TÚC      
   Y QUAN THẤT PHẨM THÔNG
   BẠCH ĐẦU QUÂN SĨ TẠI                   
   VÃNG VÃNG THUYẾT NGUYÊN PHONG            


   NGÀY XUÂN THĂM CHIÊU LĂNG

   Nghìn cửa quân tì hổ uy vũ,                             
   Các quan thất phẩm áo mũ đầy đủ.                             
   Quân sĩ có người đầu bạc vẫn còn.                                                  
   Thường thường kể chuyện thời Nguyên Phong                       


   TÒNG GIÁ HOÀN KINH
   Trần Quang Khải

   ĐOẠT SÁO CHƯƠNG DƯƠNG ĐỘ
   CẦM HỒ HÀM TỬ QUAN
   THÁI BÌNH TU TRÍ LỰC
   VẠN CỔ THỬ GIANG SAN


   THEO VUA VỀ KINH SƯ

   Cướp giáo ở bến Chương Dương,
   Bắt giặc ở cửa Hàm Tử,
   Muốn thái bình thì phải nên gắng sức,
   Nước non này sẽ vững bền muôn thuở ... ! ...


   THUẬT HOÀI
   Phạm Ngũ Lão

   HOÀNH SÓC GIANG SƠN KHÁP KỶ THU
   TAM QUÂN TÌ HỔ KHÍ THÔN NGƯU
   NAM NHI VỊ LIỄU CÔNG DANH TRÁI
   TU THÍNH NHÂN GIAN THUYẾT VŨ HẦU


   TỎ LÒNG

   Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
   Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng át cả sao Ngưu.
   Thân nam nhi nếu chưa trả xong món nợ công danh,
   Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu.



   BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ của Trương Hán Siêu đời Trần, khi chiến tranh đã lùi xa, cũng phảng phất cái phong vị hào sảng pha lẫn ngậm ngùi :


   ... TIẾP KÌNH BA Ư VÔ TẾ, TRÁM DIÊU VĨ CHI TƯƠNG MÂU
   THỦY THIÊN NHẤT SẮC, PHONG CẢNH TAM THU
   CHỮ ĐỊCH NGẠN LÔ, SẮT SẮT SƯU SƯU
   CHIẾT KÍCH TRẦM GIANG, KHÔ CỐT DOANH KHÂU
   THẢM NHIÊN BẤT LẠC, TRỮ LẬP NGƯNG MÂU
   NIỆM HÀO KIỆT CHI DĨ VÃNG, THÁN TÔNG TÍCH CHI KHÔNG LƯU ...


   ... Bát ngát sóng kình muôn dặm, thướt tha đuôi trĩ một màu.
   Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.
   Bến lách bờ lau, quạnh quẽ đìu hiu.
   Giáo gãy chìm sông, cốt khô đầy gò.
   Bất giác ngậm ngùi, lặng tưởng phù du.
   Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá, than rày dấu tích hãy còn lưu ... ! ...



   CẢM HOÀI của Đặng Dung cũng mang nặng nỗi niềm trung phẫn của một chiến tướng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh của nhà Hậu Trần :


   THẾ SỰ DU DU NẠI LÃO HÀ
   VÔ CÙNG THIÊN ĐỊA NHẬP HÀM CA
   THỜI LAI ĐỒ ĐIẾU THÀNH CÔNG DỊ
   VẬN KHỨ ANH HÙNG ẨM HẬN ĐA
   TRÍ CHỦ HỮU HOÀI PHÙ ĐỊA TRỤC
   TẨY BINH VÔ LỘ VÃN THIÊN HÀ
   QUỐC THÙ VỊ PHỤC ĐẦU TIÊN BẠCH
   KỶ ĐỘ LONG TUYỀN ĐÁI NGUYỆT MA


   Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào ?
   Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
   Khi gặp thời, người hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
   Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
   Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
   Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
   Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
   Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng suông.



   CHINH PHỤ NGÂM KHÚC của Đặng Trần Côn, qua bản dịch của Đoàn Thị Điểm, trải qua bao cơn binh lửa Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn, ... cũng đầy hào sảng và ngậm ngùi :


   THIÊN ĐỊA PHONG TRẦN
   HỒNG NHAN ĐA TRUÂN
   DU DU BI THƯƠNG HỀ THÙY TẠO NHÂN
   CỔ BỀ THANH ĐỘNG TRƯỜNG THÀNH NGUYỆT
   PHONG HỎA ẢNH CHIẾU CAM TUYỀN VÂN
   CỬU TRÙNG ÁN KIẾM KHỞI ĐƯƠNG TỊCH
   BÁN DẠ PHI HỊCH TRUYỀN TƯỚNG QUÂN
   THANH BÌNH TAM BÁCH NIÊN THIÊN HẠ
   TÙNG THỬ NHUNG Y THUỘC VŨ THẦN
   SỨ TINH THIÊN MÔN THÔI HIỂU PHÁT
   HÀNH NHÂN TRỌNG PHÁP KHINH LY BIỆT
   CUNG TIỄN HỀ TẠI YÊU
   THÊ NOA HỀ BIỆT KHUYẾT
   LIỆP LIỆP TINH KỲ HỀ XUẤT TÁI SẦU
   HUYÊN HUYÊN TIÊU CỔ HỀ TỪ GIA OÁN
   HỮU OÁN HỀ PHÂN HUỀ
   HỮU SẦU HỀ KHẾ KHOÁT
   ...


   Thuở trời đất nổi cơn gió bụi 
   Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên 
   Xanh kia thăm thẳm tầng trên 
   Vì ai gây dựng cho nên nỗi này 
   Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt 
   Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây 
   Chín tầng gươm báu trao tay 
   Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh 
   Nước thanh bình ba trăm năm cũ 
   Áo nhung trao quan vũ từ đây 
   Sứ trời sớm giục đường mây 
   Phép công là trọng, niềm tây sá nào 
   Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn 
   Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa 
   Bóng cờ tiếng trống xa xa 
   Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng 
   ...



   Thời tiền chiến, trước 1945, thơ ca Việt Nam cũng có cái phong vị hào sảng và ngậm ngùi, nhuốm thêm chút màu lãng mạn khói sương :


   TỐNG BIỆT HÀNH
   Thâm Tâm

   Đưa người ta không đưa sang sông,
   Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
   Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
   Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?

   Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
   Một giã gia đình, một dửng dưng ...

   Ly khách ! Ly khách ! Con đường nhỏ,
   Chí nhớn chưa về bàn tay không,
   Thì không bao giờ nói trở lại,
   Ba năm mẹ già cũng đừng mong !

   Ta biết người buồn chiều hôm trước,
   Bây giờ mùa hạ sen nở nốt.
   Một chị, hai chị cũng như sen,
   Khuyên nốt em trai dòng lệ sót

   Ta biết người buồn sáng hôm nay,
   Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay.
   Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc,
   Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay ...

   Người đi ? Ừ nhỉ, người đi thực !
   Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
   Chị thà coi như là hạt bụi,
   Em thà coi như hơi rượu say ...

   ( 1940 )



   Rồi đi vào cuộc kháng chiến chín năm 1945 - 1954 :


   TÂY TIẾN
   Quang Dũng

   Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
   Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
   Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
   Mường Lát hoa về trong đêm hơi
   Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
   Heo hút cồn mây súng ngửi trời
   Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
   Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
   Anh bạn dãi dầu không bước nữa
   Gục lên súng mũ bỏ quên đời
   Chiều chiều oai linh thác gầm thét
   Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
   Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
   Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

   Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
   Kìa em xiêm áo tự bao giờ
   Khèn lên man điệu nàng e ấp
   Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

   Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
   Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
   Có nhớ dáng người trên độc mộc
   Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

   Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
   Quân xanh màu lá dữ oai hùm
   Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
   Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

   Rải rác biên cương mồ viễn xứ
   Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
   Áo bào thay chiếu anh về đất
   Sông Mã gầm lên khúc độc hành

   Tây Tiến người đi không hẹn ước
   Đường lên thăm thẳm một chia phôi
   Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
   Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

   ( Phù Lưu Chanh - 1948 )


   MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
   Quang Dũng

   Em ở thành Sơn chạy giặc về 
   Tôi từ chinh chiến cũng ra đi 
   Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt 
   Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì 

   Vầng trán em vương trời quê hương 
   Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương 
   Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm 
   Em có bao giờ em nhớ thương ? 

   Mẹ tôi, em có gặp đâu không 
   Bao xác già nua ngập cánh đồng 
   Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ 
   Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông ! 

   Từ độ thu về hoang bóng giặc 
   Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn ! 
   Đất đá ong khô nhiều suối lệ 
   Em đã bao ngày lệ chứa chan ? 

   Đôi mắt người Sơn Tây 
   U ẩn chiều lưu lạc 
   Buồn viễn xứ khôn khuây 
   Tôi gửi niềm nhớ thương 
   Em mang giùm tôi nhé 
   Ngày trở lại quê hương 
   Khúc hoàn ca rớm lệ 

   Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn 
   Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng 
   Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc 
   Sáo diều khuya khoát thổi đêm trăng 

   Bao giờ tôi gặp em lần nữa 
   Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca 
   Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ 
   Còn có bao giờ em nhớ ta ?

   (1949) 


   MÀU TÍM HOA SIM
   Hữu Loan

   Nàng có ba người anh đi bộ đội 
   Những em nàng 
   Có em chưa biết nói 
   Khi tóc nàng xanh xanh 

   Tôi người Vệ quốc quân 
   xa gia đình 
   Yêu nàng như tình yêu em gái 
   Ngày hợp hôn 
   nàng không đòi may áo mới 

   Tôi mặc đồ quân nhân 
   đôi giày đinh 
   bết bùn đất hành quân 
   Nàng cười xinh xinh 
   bên anh chồng độc đáo 
   Tôi ở đơn vị về 
   Cưới nhau xong là đi 
   Từ chiến khu xa 
   Nhớ về ái ngại 
   Lấy chồng thời chiến binh 
   Mấy người đi trở lại 
   Nhỡ khi mình không về 
   thì thương 
   người vợ chờ 
   bé bỏng chiều quê... 

   Nhưng không chết 
   người trai khói lửa 
   Mà chết 
   người gái nhỏ hậu phương 
   Tôi về 
   không gặp nàng 
   Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối 
   Chiếc bình hoa ngày cưới 
   thành bình hương 
   tàn lạnh vây quanh 

   Tóc nàng xanh xanh 
   ngắn chưa đầy búi 
   Em ơi giây phút cuối 
   không được nghe nhau nói 
   không được trông nhau một lần 

   Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím 
   áo nàng màu tím hoa sim 
   Ngày xưa 
   một mình đèn khuya 
   bóng nhỏ 
   Nàng vá cho chồng tấm áo 
   ngày xưa... 

   Một chiều rừng mưa 
   Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc 
   Được tin em gái mất 
   trước tin em lấy chồng 
   Gió sớm thu về rờn rợn nước sông 
   Đứa em nhỏ lớn lên 
   Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị 
   Khi gió sớm thu về 
   cỏ vàng chân mộ chí 

   Chiều hành quân 
   Qua những đồi hoa sim 
   Những đồi hoa sim 
   những đồi hoa sim dài trong chiều không hết 
   Màu tím hoa sim 
   tím chiều hoang biền biệt 
   Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa 
   Áo anh sứt chỉ đường tà 
   Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu 
   Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau 
   Chiều hoang tím có chiều hoang biết 
   Chiều hoang tím tím thêm màu da diết 
   Nhìn áo rách vai 
   Tôi hát trong màu hoa 
   Áo anh sứt chỉ đường tà 
   Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu... 
   Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm 
   Tím tình ơi lệ ứa 
   Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành 
   Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn 
   Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím 
   Tôi ví vọng về đâu 
   Tôi với vọng về đâu 
   Áo anh nát chỉ dù lâu...

   (1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)



   Rồi đến cuộc chiến 1954 - 1975 :

   Cái âm hưởng "hào sảng" ấy, ta lại thấy trùng trùng trong thơ ca ở Miền Bắc Việt Nam ...

   Cái âm hưởng ngậm ngùi ấy, ta lại thấy điệp điệp trong thơ ca ở Miền Nam Việt Nam ...

   Hãy "đọc", "nghe", và "cảm" ... ! ...

   ...

   Và "ngẫm ngợi" ... ! ... ! ... ! ...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét